KHẮP NƠI TRONG THỊ TRẤN
Tác giả: Mary Higgins Clark
Người dịch: Strong Icarus
Nhấn vào đây để đọc từ chương 1 đến chương 3
4
Ban đầu, cảnh sát đến thăm gia đình mỗi ngày, ảnh của
Laurie được đăng ở trang nhất mọi tớ báo ở New Jersey và New York . Ở nhà, với hai hàng nước mắt,
Sarah nhìn thấy bố mẹ mình trên chương trình “Chào buổi sáng”, cầu xin những kẻ
bắt cóc mang trả Laurie về cho họ.
Hàng tá người gọi điện tới và nói rằng họ đã nhìn thấy
Laurie, nhưng không có một mang mối nào hữu ích. Cảnh sát đã hi vọng rằng đây
là một vụ bắt cóc đòi tiền chuộc, nhưng không có một yêu cầu nào được đưa ra.
Mùa hè tới. Sarah chứng kiến khuôn mặt mẹ mình trở nên
tiều tụy và hốc hác, cùng với đó là hình ảnh cha cô liên tục phải lục tìm lọ
thuốc nitro-glycerin trong túi áo. Mỗi buổi sáng, họ đi đến buổi lễ lúc 7 giờ
và cầu nguyện để Laurie được đưa trả về nhà. Mỗi đêm, Sarah thường tỉnh giấc để
nghe thấy tiếng mẹ cô bé thổn thức, và tiếng cha cô an ủi vợ khi bản thân ông
cũng đã kiệt sức. “Laurie được sinh ra đã là cả một phép màu. Hãy tin vào một
phép màu khác sẽ mang con bé quay trở lại,” cô bé nghe tiếng bố nói.
Năm học mới lại bắt đầu. Sarah luôn là một học sinh xuất
sắc. Cô mải mê với những cuốn sách, nhận ra rằng chỉ bằng việc học, cô mới có
thể trốn thoát khỏi nỗi phiền muộn của bản thân. Bẩm sinh đã sở hữu vóc dáng
của một vận động viên, cô bắt đầu học cách chơi golf và tennis. Sarah vẫn không
nguôi nhớ mong người em gái, nỗi nhớ hiện hình trong những con đau tức. Cô tự
hỏi liệu Chúa Trời có đang trừng phạt mình vì đã có lúc oán trách rằng tại sao
mọi sự quan tâm đều được dành cho Laurie. Cô tự buộc tội mình vì ngày hôm đó đã
đi dự sinh nhật và lờ đi việc Laurie không được phép ra ngoài một mình. Cô hứa
rằng, nếu Chúa Trời mang Laurie trả lại cho họ, cô sẽ luôn luôn, luôn luôn chăm sóc cho em gái mình.
5
Mùa hè trôi qua. Gió bắt đầu lùa qua những khe nứt trên
các bức tường. Laurie lúc nào cũng lạnh cóng. Một ngày kia, Opal trở về nhà với
vài cái áo dài tay, quần bò yếm, và một cái áo khoác mùa đông. Chúng không đẹp
như quần áo Laurie từng mặc. Khi trời ấm trở lại, chúng đưa cho Laurie những bộ
quần áo khác, quần cộc, áo phông và dép sandal. Một mùa đông nữa lại trôi qua.
Laurie ngắm nhìn những chiếc lá trên cái cây to trước nhà bung lộc, lớn lên,
nhanh chóng phủ kín mọi cành nhánh.
Bic có một cái máy đánh chữ cũ đặt trong phòng ngủ. Cái
máy tạo ra những tiếng lách cách rất to mà Laurie có thể nghe thấy khi đang lau
bếp hay xem tivi. Tiếng lách cách đó là một âm thanh hạnh phúc. Nó cho Laurie
biết tạm thời Bic không thèm bận tâm đến cô.
Một lúc lâu sau, Bic sẽ ra khỏi phòng ngủ, cầm theo một
xấp giấy và bắt đầu đọc to chúng cho Laurie và Opal. Hắn luôn luôn gào tướng
lên, cũng như luôn kết thúc bằng cùng một câu, “Hallelujah. Amen!”. Khi đã kết
thúc bài đọc, Opal và Bic sẽ cùng nhau hát váng lên. Luyện tập, chúng gọi việc
đó như vậy. Những bài ca về Chúa và con đường về nhà.
Nhà. Đó là từ mà giọng nói trong đầu con bé muốn Laurie
không bao giờ nghĩ về nữa.
Laurie chưa bao giờ bắt gặp một ai khác. Chỉ có Bic và
Opal. Và khi ra ngoài, chúng nhốt con bé dưới tầng hầm. Điều này xảy ra khá
thường xuyên. Tầng hầm là một nơi vô cùng đáng sợ. Cửa sổ gần như được gắn trên
trần nhà, và bị bít lại bằng những tấm ván. Một nơi đầy những cái bóng, đôi khi
những cái bóng dường như còn di chuyển. Lần nào cũng vậy, Laurie cố gắng chìm
vào giấc ngủ ngay trên cái đệm mà chúng bỏ lại trên sàn.
Bic và Opal gần như không bao giờ có bạn. Nếu như có ai đó
đến chơi nhà, Laurie sẽ bị nhốt dưới tầng hầm, với cẳng chân bị xích vào ống
nước. Như vậy con bé sẽ không thể trèo lên và đập cửa. “Và nếu mày dám mở mồm
kêu cứu,” Bic đe dọa. “Thì mày sẽ gặp rắc rối lớn đấy, và dù gì đi nữa, chúng
tao cũng chẳng thể nghe thấy tiếng mày.”
Sau mỗi lần đi ra ngoài, chúng thường mang tiền về. Đôi
khi chẳng đáng là bao, đôi khi lại ra tấm ra món. Hầu hết là *quarters* và *dollar
bills*.
Chúng để con bé đi ra sân sau cùng với chúng. Chúng chỉ
cho con bé cách tưới rau trong vườn và nhặt trứng trong chuồng. Có một con gà
con mới nở, chúng cho phép Laurie giữ nó làm vật nuôi. Laurie chơi đùa với con
gà mỗi khi cô bé có cơ hội ra ngoài. Thỉnh thoảng, khi chúng nhốt con bé dưới
tầng hầm và đi ra ngoài, chúng cho phép Laurie giữ con gà bên mình.
Cho tới một ngày tồi tệ nọ, khi Bic giết con gà.
Sáng sớm tinh mơ một ngày nọ, họ bắt đầu đóng gói đồ đạc –
chỉ quần áo, tivi và cái máy đánh chữ của Bic. Bic và Opal vừa làm vừa hát rống
lên, “Ha-lay-loo-ya.”
“Một trạm phát 15000 oát ở Ohio !” – Bic gào lên, “Bible Bell, chúng tao
tới đây!”
Họ lái xe suốt hai tiếng đồng hồ. Rồi từ ghế sau, vật lộn
giữa đám hành lí cũ kĩ, Laurie nghe thấy tiếng Opal nói, “Đến nhà hàng và đánh
chén một bữa tối cho tử tế nào. Sẽ chẳng ai chú ý đến con bé đâu. Chúng có lí
do gì để làm thế đâu?”
Bic nói, “Đúng đấy.” Sau đó hắn nhanh chóng nhìn Laurie,
qua vai. “Opal sẽ gọi bánh mì kẹp và sữa cho mày. Đừng có dại mà bắt chuyện với
bất kì ai, nghe chưa”
Ba người bước vào một chỗ với quầy bán hàng dài cùng rất
nhiều bàn và ghế. Laurie đói tới độ con bé dường như nếm được cả vị của món
thịt lợn hun khói mà người ta đang rán. Nhưng còn có cái gì đó rất khác. Con bé
nhớ mang máng rằng nó đã từng ở một nơi như thế này, với những người khác. Một
cơn nức nở không thể kiềm chế dâng lên trong cổ họng con bé. Bic đẩy nó từ đằng
sau, hối thúc nó bám theo Opal, và con bé òa khóc. Con bé khóc to đến độ nó
không thể thở được. Nó nhìn thấy cô gái ở quầy thu ngân đang nhìn mình chằm
chằm. Bic tóm lấy con bé và đẩy nó về phía bãi để xe, Opal theo hắn sát gót.
Bic ném con bé vào ghế sau, rồi hắn và Opal vội vã lao lên
ghế trước. Khi Opal đạp lên chân ga, Bic túm lấy con bé. Opal cố né tránh khi
bàn tay lông lá vung qua lại ngang mặt ả. Nhưng Opal không hề cảm thấy đau đớn.
Ả ta chỉ thấy thương hại cho đứa bé gái đang khóc ngằn ngặt phía sau xe.
(còn tiếp)
(còn tiếp)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét