Thứ Bảy, 27 tháng 9, 2014

"A" - Sắc xanh tĩnh lặng (2)

3
Sau khi băng qua cánh đồng dương xỉ vẫn còn ướt đẫm sương, tôi tiến vào khu rừng đã hiện ra trước mắt. Khác với rừng trên ngọn núi có ngôi nhà của tôi – bao phủ bởi những cái cây to với bộ rễ kềnh càng chở trên mình hàng đống dây leo nhằng nhịt, loại cây chiếm ưu thế ở đây lại là thông và họ hàng của nó. Thẳng tắp, và toả ra mùi tinh dầu nhè nhẹ. Không khí ở đây có vẻ loãng hơn phía bên kia của thung lũng.
Tôi bắt đầu thấy khó thở, rồi chóng mặt. Những mảnh cuối cùng của bữa sáng trong dạ dày tôi chỉ trực trào ngược ra ngoài. Da tay và mặt tôi bắt đầu nóng lên và ngứa kinh khủng. Tôi loạng choạng ngã xuống một gốc cây gần đó. Chỉ đến lúc này tôi mới nhận ra không chỉ tay, mặt mà cả quần áo tôi đều bám đầy một thứ lông màu vàng nhạt. Thứ lông này cũng lơ lửng khá nhiều trong không khí. Tôi đã quá hấp tấp và bị tấn công. Vội vã đứng lên khỏi gốc cây, rũ sạch đám lông khỏi người, tôi kinh hãi nhận ra xung quanh chỗ mình vừa ngồi la liệt những con sâu lông béo múp phủ đầy thứ lông màu vàng nhạt kia. Mỗi khi vô tình chạm phải chúng, những sợi lông lại bung ra tự vệ.
SÂU RÓM. CHẾT TIỆT.
Tôi vội vã tháo chạy khỏi khu rừng, đầu hoa lên vì thiếu ô xi, và vì cơn ngứa kinh hoàng. Nháo nhào, tôi ngã vào đám dương xỉ và lăn tròn.
                                                                    ...

Sau cuộc tháo chạy khỏi đám sâu lông lá trong rừng thông, tôi mất trọn một tuần để chuẩn bị cho cuộc thám hiểm tiếp theo. Một tuần, trong đó phân nửa thời gian là để những vết sưng phồng xẹp xuống và cơn ngứa dứt hẳn. Liệu pháp chữa trị duy nhất tôi có được là những búi rong màu xanh thẫm ướt nhớp nháp vớt được từ dưới lòng suối-sông, một nhánh nước trong chảy ra từ khe núi mà tôi hay hứng nước. Đám thuỷ sinh có mùi không mấy thân thiện, nhưng tác dụng làm mát và giảm sưng của chúng thì thật đáng kinh ngạc.
Thời gian còn lại trong số những ngày chuẩn bị ấy, tôi dành cả ở thư viện “của tôi”. Vượt sông, chạy trốn đám sấu-sói lẩn trốn giữa những bụi cỏ, đôi lúc, không còn lựa chọn nào khác, tôi đành phải vung rìu chém chúng. Chiếc rìu với lưỡi cùn mẻ gây ra những vết thương vô cùng kinh dị. Điều này làm tôi nghĩ đến việc mình cần tìm một cuốn sách nào đó nói về cách làm sắc lại lưỡi rìu.
Thư viện là một khu nhà, mà so với tất cả những tàn tích tôi từng nhìn thấy, hoàn toàn nguyên vẹn. Những khối nhà được nối với nhau bằng những đoạn hành lang dày cỏ, có lẽ đã từng được sơn trắng. Một vài ô cửa sổ bị vỡ, nhưng không vì thế mà những cuốn sách bên trong nó bị ảnh hưởng. Tôi thường chui qua một cửa thông gió ở bên hông nhà, đột nhập vào kho lưu trữ, một toà nhà nằm tách biệt với khu tổ hợp kể trên. Một phần mái kho lưu trữ bị sụp xuống bởi ngọn của cái cây cổ thụ gần đó. Cái cây đổ nghiêng, tựa hẳn vào ngôi nhà tội nghiệp. Cái cây vẫn tiếp tục lớn, còn ngôi nhà vẫn oằn mình chờ đợi cái kết sau cùng của nó. Cá nhân tôi thì mong cái ngày ngôi nhà sập xuống sẽ không bao giờ xảy đến, vì bên trong nó là cả một thế giới mà tôi vẫn đang cố gắng tìm hiểu.
Bên trong nhà, không khí khá ẩm. Mùi mốc xộc lên từ những góc nhà đọng nước. Đây đó, khắp trong ngôi nhà này, những cuốn sách đang dần mục rữa. Vào mùa mưa, khi cơn lũ làm tôi không thể ở yên ổn trong ngôi nhà trên sườn núi, thì thư viện này chính là mái nhà yên ấm của tôi. Cũng trong thời gian ấy, bị giam lỏng trong ngôi nhà to lớn, bên ngoài là cơn mưa xối xả, dòng sông nước xiết chỉ chực cuốn trôi tất cả mọi thứ vô tình rơi xuống nó, tôi đã đọc kha khá sách trong thư viện này. Cũng chính trong thời gian này, tôi bắt tay vào di chuyển sách từ những kho đã bị nước làm ẩm đến một nơi theo tôi nghĩ là khô ráo hơn – chính là gian phòng trên mái nhà, cho đến khi cái cây đổ phá tan công sức của tôi, hoàn toàn.
Bây giờ đang là mùa khô – theo nghĩa là nhiều tuần liền không có mưa, chứ không phải kiểu thời tiết thường được mô tả trong sách. Nhiệt độ ở đây hầu như không thay đổi, chỉ đều đặn vận hành từ sáng sang tối, từ đêm sang ngày. Giống như tôi và hành tinh đang giam giữ tôi chỉ đơn thuần đi trên một cái vòng tròn hoàn hảo mà tâm của nó chính là mặt trời. Tôi cũng chưa bao giờ thực sự nhìn thấy mặt trời, nó chỉ là một vầng sáng mờ ảo màu vàng chanh trên nền trời dày đặc mây mù màu xam xám. Cũng tương tự như mặt trời, tôi chưa bao giờ nhìn thấy mặt trăng và những vì sao. Mặt trăng, đúng hơn là những gì còn lại của nó trên bầu trời, chỉ là một dải sáng bạc lấp lánh. Nhưng dường như đó cũng là câu chuyện của hàng chục năm về trước. Người ta đã cho nổ tung mặt trăng để ngăn chặn một hiểm hoạ nào đó. Nhưng dù gì đi nữa, với tôi bây giờ, câu chuyện lịch sử ấy cũng không còn quá quan trọng.
Trong ngày đầu tiên ở thư viện, tôi tìm được rất nhiều sách viết về những cây thông. Phần lớn chúng chỉ ra rằng loại cây này mọc nhiều ở một vùng gọi là “ôn đới”. Tôi đào sâu hơn trong các tư liệu để tìm hiểu về loài sâu lông lá sống kí sinh trên thân loại cây ấy. Một loài gây hại. Cách phòng trừ hiệu quả nhất là phun thuốc. Tôi không có thuốc.
Sau cây thông và loài sâu gây hại, cụm từ “ôn đới” làm tôi bị ấn tượng. Tôi bắt đầu đọc về các đới khí hậu. Tiếc thay tôi sẽ mãi mãi không còn cơ hội để chứng kiến chúng: những ngày mùa xuân mưa bụi ấm áp, những ngày mùa hè nóng nực, mùa thu mát mẻ và mùa đông giá buốt. Chúng tôi – tôi và tinh cầu này đã đánh mất điều ấy mãi mãi.
Sau hai ngày ở thư viện với những chồng sách về địa lý tự nhiên, tôi cuối cùng cũng nhớ ra những ghi chép của Zerphy. Sự nhớ ra ấy kéo theo một cơn tò mò kinh khủng. Tôi tưởng tượng ra cái kén, màu trắng ngà, chờ đón tôi giữa khoảng rừng màu xanh thẫm. Cái kén có lẽ sẽ là câu trả lời cho mọi thắc mắc của tôi về Z.

Đêm hôm ấy, bên ngọn lửa nhóm vội từ những thứ cây cành lấy được trong khuôn viên thư viện, tôi nhấm nháp nốt những quả đào cuối cùng còn lại trong túi, tay lần giở từng trang giấy nhăn nhúm với nét bút mảnh những rõ nét của người tên Zerphy. 

Thứ Sáu, 19 tháng 9, 2014

THE MAZE RUNNER: “Anh hùng thời loạn phim”



Nói về “Giải mã mê cung”, thì đầu tiên, có lẽ nên nhắc đến một cái vấn đề muôn thuở trong các bộ phim chuyển thể, một khi bạn đã trót gắn bó với nguyên tác của nó. Đó chính là sự so sánh giữa hai tác phẩm.

Tấ nhiên, công bằng mà nói, bộ phim dù hay hay dở, thì vẫn thuộc sở hữu của đạo diễn, là cái nhìn của đạo diễn, còn cuốn sách mới thuộc sở hữu của nhà văn. Một độc giả/khán giả lí tưởng có lẽ là người phân tách rạch ròi được hai điều ấy. Nhưng rõ khỉ, mình thì không phải một khán giả hay độc giả lí tưởng lắm, nên mình vẫn cứ ngồi xem, xong thỉnh thoảng lại so sánh này kia (tất nhiên là trong tiềm thức). Bài bình luận này cũng nhằm chỉ ra những cái khác biệt (cũng có thể là được/mất) giữa phim và sách, theo một cách mà mình nghĩ sẽ ít ảnh hưởng tới quyết định yêu ghét bộ phim của các bạn nhất.

Đầu tiên, ta cứ nói đến cái được trước đã nhỉ? Tuy phim và sách mở đầu tại cùng một thời điểm – khi Thomas tỉnh dậy trong thang máy, nhưng sau khoảnh khắc ấy, mỗi tác phẩm lại tiến theo một hướng, không hẳn là khác nhau, nhưng giống như bản sao của nhau ở hai thế giới.

Phần mở đầu phim khá (nói thế nào nhỉ, “nhão” – hình như đây là cái từ bạn mình dùng) chậm, và tươi sáng, giống như đi vòng quanh vấn đề chứ không lao thẳng vào nó như trong tiểu thuyết. Cái cách vào đầu vấn đề này khiến cho những người đã từng đọc qua cuốn tiểu thuyết có cơ hội được thấy một Trảng hoàn toàn khác, đúng chất bữa tiệc của những thằng đực rựa tuổi mới lớn ở chung với nhau với những trò phô trương sức mạnh, nhảy múa say xỉn…

Rồi cả cái cách Teresa “xử đẹp” lũ Trảng viên to đầu sau khi cô bé thức dậy cũng làm mình bật cười mà thốt lên “Ôi dễ thương quá” (xong hai lão đàn ông đi cùng làu bàu “Dễ thương cái gì?”). Nghĩ xem, khi bạn đã biết Teresa, biết được cả số mệnh của cô ấy, thì một đoạn phim ngắn ngủi ấy thôi, khi cô ấy cư xử như một cô nhóc thực thụ, còn đám Chảo Chiên, Gally, Newt rồi cả Chuck lấy chảo, khiên, nắp thùng… mạnh ai nấy đỡ cơn mưa “củ đậu bay”, không phải quá tươi đẹp sao? Nhìn khung cảnh ấy, liệu ai nghĩ những đứa trẻ ấy sẽ chết ngay trong ngày mai, hoặc một ngày kia nào đấy.

Mình khá bất ngờ về đoạn “làm thêm” này của đạo diễn Wes Ball. Tuy vì nó mà rất nhiều thứ bị lược bỏ ở đoạn sau, khiến cho kết cấu của câu chuyện không thực sự vững chắc như nguyên tác, nhưng mình vẫn thấy nó đáng giá vô cùng. Những sự kiện ấy giống như một món quà nho nhỏ mà đạo diễn dường như muốn dành tặng cho những người đã đọc cuốn sách, những người đã theo chân nhóm bạn đến giờ phút cuối cùng, một cơ hội nữa để chia sẻ những tháng ngày yên bình sẽ mãi mãi bị tước đoạt khỏi những nhân vật mà họ yêu quý.

Không chỉ tình tiết phim được thay đổi, các nhân vật trong phim dường như cũng là những bản sao rất khác của chính mình.  Minho xuất hiện trong phim như một người đẹp u sầu (và cả phim lúc nào cũng thế. Mình mong cậu ta phun ra cái câu “You are the shuckiest shuck-faced shuck that ever was” đã thành thương hiệu, mà rốt cuộc cậu ta chỉ nó có mỗi một lần). Kihong Lee có tất cả mọi thứ của Minho, từ cái vẻ ngoài lém lỉnh lúc nào cũng như chuẩn bị nói một câu gì đó ngỗ ngược cho tới tính cách năng động hoạt bát. Nhưng trong bộ phim này, Minho không phải là thằng nhóc Minho nóng nảy miệng chuyên nói mấy câu chọc điên người khác nữa, nó trầm tĩnh, ít nói và thích quan sát những điều xảy ra xung quanh mình. Nó là thằng Minho của “Lối thoát tử thần” chứ không giống thằng Minho ở Trảng. Điều duy nhất giúp mình nhận ra hai thằng Minho ấy là một, chính là sự bộc trực, sẵn sàng dấn thân vào nguy hiểm của nó. Và KiHong Lee đã nắm bắt và truyền tải được con người ấy trên màn ảnh. Cũng chẳng ngoa lắm khi anh Phan Xine nhắc đến cậu như một điểm sáng của toàn bộ phim.

Newt (ôi nhắc đến tên anh là lòng em lại xao xuyến) vẫn là chất keo kết dính, vẫn là cậu thiếu niên dịu dàng luôn hoá giải mọi mâu thuẫn, lắng nghe và chia sẻ với những người xung quanh mình. Chắc đạo diễn chẳng thừa hơi mà nhắc đến cú ngã của Newt, nên trong bộ phim này, cậu có đôi chân lành lặn. Thomas Brodie-Sangster khiến mình dường như không thể rời mắt khỏi Newt, bởi từ thần thái của cậu toả ra một sự ân cần, sự ân cần làm nên nhân vật của cậu. (Mà có lẽ tại mình bị hoa mắt bởi truyện nên xem phim bị quáng gà)

Bên cạnh những phần “bổ sung” không hề có trong mạch truyện làm người xem thích thú, “Giải mã mê cung” còn tạo ra cho mình một không gian cảm xúc rất khác biệt. Nét khác biệt đầu tiên trong bản danh sách rất dài chính là việc ai cũng có cơ hội được làm anh hùng. Chính điều ấy đã giảm bớt cảm giác trách nhiệm đè lên vai cậu bé Thomas, cũng như chia đều tình cảm của người xem dành cho các nhân vật trong phim. Tiếp theo đó là việc làm nhẹ đi những chi tiết cực đoan để hợp với khán giả trẻ tuổi, nhưng cũng đồng thời khiến những người từng là độc giả bớt đau lòng… (thiệt muốn kể ra đây luôn, nhưng kiểu gì cũng thành spoil) có lẽ đây chưa phải là lúc thích hợp để kể lại, nhưng mình có thể nhắn nhủ rằng, khác biệt lớn nhất về mặt cảm xúc đến từ cái twist cuối phim. Thay đổi ấy làm mình nghĩ cái kết cục sau cùng chắc sẽ còn làm khán giả từng đọc sách té lăn cù.

Một điều thú vị nữa, mà mình đã thốt lên lúc xem phim (nhắc lại lần nữa, TRONG ĐẦU), đó là “Phim còn khùng hơn truyện”. Đó là những cảnh rượt đuổi, chạy trốn trong phim. Khi đọc những câu chữ được viết ra trong sách, mình đã thấy nó quá gay cấn, quá kịch tính thì lên phim, cảm xúc ấy được nhân lên gấp mười lần. Mọi thứ đều bất ngờ, dồn dập, chớp nhoáng… giữa âm thanh rin rít của tụi Nhím Sầu và những vận động của mê cung là những Tầm đạo sinh bé nhỏ đang cố sức chạy thoát thân. Cái câu “Run for your life” đưa vào đây thích hợp hơn bất cứ tag line của bất cứ trò chơi nào.

Một cái nữa, dù nhỏ nhỏ xinh xinh thôi nhưng cũng nên được nhắc đến, đó là việc đạo diễn và đội ngũ của mình đã “cơ khí hoá” một cách triệt để mê cung, biến nó thành một thứ pha trộn giữa khu công nghiệp bị bỏ hoang với một trạm nghiên cứu không gian của những năm 70. Điều này không hẳn là hay, nhưng phần nào lại logic hơn với phần sau của cả phim và sách, nhưng lại thiếu logic với phần cuối cùng (xin lỗi vì đã spoil). Cũng nên nói luôn, là chính vì những thay đổi ấy, mà phần “giải mã mê cung” theo đúng nghĩa đen rất hay trong sách lại trở nên quá đơn giản, khiến cho thử nghiệm trở thành một thứ gì đó rất “bông phèng”, và W.I.C.K.E.D (rất muốn dùng cụm từ VSAT trong truyện) dường như bị động trước cuộc đào tẩu này. Nhưng đạo diễn vẫn có cách giữ lại vai trò của cậu bé Chuck, một cách thật tự nhiên.

Nãy giờ lan man nói rất nhiều về những cái được, giờ bàn đến cái mất.

Cái mất đầu tiên (và có lẽ cũng là to nhất) chính là cách thức giải mã mê cung đã nói đến bên trên. Thứ tưởng như là phương thức quan trọng nhất để mở ra nút thắt buộc chặt tất cả mọi thứ bí mật, thứ mà các Trảng viên liều mình tìm kiếm, hoá ra lại chỉ là thứ họ đã biết từ cả tỉ năm trước nhưng rồi lại cho rằng nó vô dụng.

Điều tiếp theo, chính là sự cắt bỏ, sắp xếp các tình tiết trong truyện vào phim cũng làm mình khá “đau tim”. Mình không phản đối chúng, vì rõ ràng nếu bê nguyên xi chúng vào, thì những người đã đọc sách như mình sẽ chẳng còn gì để chờ đợi, nhưng “đánh rơi” nhiều thứ như này cũng dễ khiến người ta… đau tim. Mối quan hệ giữa Teresa và Thomas cũng rơi vào hoàn cảnh tương tự như huyết thanh nhím sầu hay việc chấp nhận hi sinh để tìm lại quá khứ của Thomas. Vô tình vì bị lược bỏ một số “mối nối” mà nó trở nên yếu ớt, không có sức ảnh hưởng mạnh như nó cần phải có.   

Tuy có nhiều những được mất như mình đã điểm lại trong bài bình luận dài dằng dặc như trên, thì có những điểm cộng sáng giá cho bộ phim này, mà bạn không nhất thiết phải đọc sách rồi mới có thể nhận thấy. Đó chính là một bộ phim có tiết tấu ổn định, nhanh gọn và nhiều kịch tính; hình ảnh đẹp mắt (tất nhiên bao gồm cả dàn diễn viên trẻ trung xinh đẹp) với một mê cung đầy sức thuyết phục được xây dựng công phu, đa dạng trong hình thức và cách thức vận động. Âm thanh cũng là một lợi thế của bộ phim, khi nó cộng hưởng hoàn hảo với hình ảnh. Đó là tiếng rít ghê rợn của bọn Nhím Sầu khi chúng lao về phía nạn nhân, hay âm thanh vang vọng đầy đe doạ của mê cung khi chúng bắt đầu xê dịch…

Xếp qua một bên những tên tuổi lớn như bộ bốn The Hunger Game, The Maze Runner như một “anh hùng” không ai mong đợi đột nhiên xuất hiện trong thời điểm mà có quá nhiều bộ phim sci-fi chuyển thể dành cho tuổi mới lớn (young-adult) gây thất vọng não nề như hiện nay. Một mở đầu đáng mong đợi cho hai phần sau đầy cảm xúc.

Note: cái tờ rơi của phim quả là quá sức dễ thương. Một mặt là poster, mặt sau là survival tips =))


S.Icarus

Thứ Năm, 18 tháng 9, 2014

THE PAN’S LABYRINTH: Thế giới nào cho em?




Trong “The Pan’s Labyrinth”, Guillermo del Toro đang cố gắng kể lại một câu chuyện thần tiên mà phần hư thì ít, phần thực thì nhiều, đủ sức khiến cho trái tim người xem thắt lại khi cảnh cuối phim khép lại trên nền bài hát ru u buồn.

Vào năm 2011, tôi được xem “Wizard of the Oz” tại thư viện TPD (hồi ấy còn ở 22 Hai Bà Trưng). Tôi gần như ngay lập tức và tin rằng đó là bộ phim tuyệt nhất mình từng xem. Dù được làm từ trước chiến tranh thế giới thứ hai, được tô màu lại từ phim đen trắng, rồi bối cảnh toàn hoa nhựa… thì xứ Oz trong bộ phim ấy vẫn là một chốn thiên đường khiến tôi mê mẩn. Tôi yêu xứ Oz, yêu Dorothy, yêu cuộc phiêu lưu của cô, vì với tôi, những điều ấy giống như một lời tuyên bố, rằng thế giới thần tiên là có thật, những sinh vật kì bí, phù thủy và pháp sư, những phép màu… là có thật. Tôi tin vào “Wizard of the Oz”, như tin vào thế giới kì diệu của riêng mình.
Nhưng vào những ngày cuối mùa hạ của tuổi 22, giấc mơ về xứ Oz của tôi tan thành mây khói. Tôi mua được một DVD của “Phù thuỷ xứ Oz”, tất nhiên là đồ Tàu thôi, từ hàng đĩa Tràng Tiền (giờ đã không còn nữa). Đĩa phim phần mở đầu dài hơn (không xuất hiện trong bản phim tôi được xem lúc trước), xuất hiện thêm cả những người giúp việc trong nông trại như một tấm gương phản chiếu lại những người bạn của Dorothy ở xứ Oz. Vài phút phim ngắn ngủi, nhưng lái câu chuyện theo một hướng khác đầy nghiệt ngã. Hóa ra cô bé Dorothy ấy, cũng giống như tôi, mãi mãi sống trong cái thế giới hoang tưởng của mình.
Theo một cách nào đấy, “The Pan’s Labyrinth” khiến tôi nhớ đến “Wizard of the Oz”. Cả Ofelia và Dorothy đều tin vào một xứ sở thần tiên diệu kì mà các cô mắt thấy tai nghe, nhưng cuối cùng, nơi chốn tưởng tượng ấy vẫn không thể tách khỏi hình ảnh chính thế giới nơi các em đang sống.
Trong số rất nhiều những bảng xếp hạng của mình, kênh WatchMojo đã hết lần này đến lần khác liệt kê “The Pan’s Labyrinth” vào danh sách Phim thiếu nhi nhưng không dành cho thiếu nhi, Những bộ phim thiếu nhi kinh dị nhất, Phim thiếu nhi nghiệt ngã nhất… Nhưng tôi thì lại nghĩ, đây chưa bao giờ là một bộ phim dành cho thiếu nhi. Tương tự như việc đây cũng chưa bao giờ là một bộ phim về những xứ sở diệu kì.
“The Pan’s Labyrinth” diễn ra tại Tây Ban Nha những năm 1944, khi cuộc chiến tranh dường như đã kết thúc, và quân đội tiếp tục những chiến dịch truy đuổi phiến quân đang trốn sâu trong rừng. Cô bé Ofelia chuyển đến sống trong một doanh trại quân đội nơi người chồng mới của mẹ Ofelia, cũng là cha đứa bé bà đang mang trong mình, là thủ lĩnh. Ngày đầu tiên đến với khu doanh trại, Ofelia đã tìm thấy một mê cung bỏ hoang sát bìa rừng. Mê cung đó là cánh cửa dẫn đến một thế giới diệu kì mà trong đó Ofelia là nàng công chúa vì trốn lên mặt đất mà phải chịu cảnh lưu đày trong kiếp người. Một vị thần đầu dê cho cô bé ba cơ hội thực hiện ba thử thách. Hoàn thành ba thử thách ấy, cô bé có thể quay về với phụ vương và mẫu hậu đang ngày đêm mong chờ.
Không phải một bộ phim dành cho thiếu nhi, cũng không phải một bộ phim làm về các xứ sở diệu kì, “The Pan’s Labyrinth” là câu chuyện về sự bất hạnh và nỗi đau bắt nguồn từ những điều đẹp đẽ. Lí tưởng là một điều đẹp đẽ, nhưng để đạt được nó, người ta buộc phải đấu tranh, hoà bình là một điều đẹp đẽ, nhưng cái giá phải trả cho nó là những cuộc chiến tranh – xâm lược và chống trả, thế giới kì diệu ngập tràn niềm vui và hạnh phúc là một điều đẹp đẽ, nhưng cô bé Ofelia phải đánh đổi nó bằng mọi thứ cô bé có được trong đôi bàn tay bé nhỏ của mình.
Đó là nhiều cuộc chiến, trên nhiều mặt trận, nhưng tựu chung lại đều bắt nguồn từ cuộc đối đầu lớn nhất giữa hai phe: quân chính phủ và phiến quân nổi loạn. Kẹt giữa hai phe xung đột ấy là vị bác sĩ, cô hầu gái Mercedes, Ofelia và người mẹ luôn đau yếu.
Người bác sĩ có lẽ là nhân vật tôi thích nhất bộ phim, bởi giữa những người đang cố tìm cách giết nhau, giữa hận thù và xung đột về tư tưởng, thì ông là người duy nhất liên kết họ bằng mối dây của sự sống. Sự chữa trị của ông là công bằng. Ông chữa trị nỗi đau về thể xác cho mọi người, không quan trọng phe phái. Ông lắng nghe nỗi đau của họ, chứ không lắng nghe những mệnh lệnh hay hăm dọa. Cũng chính người bác sĩ ấy đã nói: “Tuân lệnh là thứ dành cho những người nghe lời mà không cần thắc mắc. Thứ đó chỉ có ông mới làm được thôi, Đại úy”.
Vị bác sĩ làm tôi nhớ đến một nhân vật trong cuốn sách tên “Thảo nguyên đại bàng”. Trong cuốn sách, một ông lão đã cưỡng lại mệnh lệnh của quân xâm lược. Cụ bị phát xít bắn chết. Giây phút cuối cuộc đời cụ chỉ đơn giản là nằm co người lại trong tư thế yêu thích của mình như thể đang chìm vào giấc ngủ. Còn vị bác sĩ của tôi, ông chậm rãi tháo kính, đưa tay lên day quầng mắt mệt mỏi – như một phút ngơi nghỉ hiếm hoi giữa cuộc đời bận rộn. Cái chết không khiến ông sợ hãi, trái lại, nó reo rắc nỗi sợ hãi vào trái tim những kẻ đã nhẫn tâm giết hại ông.
Cha dượng của Ofelia Vidal, kẻ đã xuống tay giết chết bác sĩ vì bất lực trước tinh thần không chịu khuất phục của ông, là một gã chỉ huy hung bạo và mù quáng. Ông ta bị ám ảnh về đứa con trai sinh ra chính ở nơi cha nó chiến đấu, đứa trẻ (dường như) sẽ làm rạng danh cha mình. Ông ta luôn giữ bên mình một chiếc đồng hồ bỏ túi với mặt đồng hồ bị đập vỡ. Chiếc đồng hồ sau là kỉ vật của người cha đã chết trong chiến trận. Người cha đập vỡ chiếc đồng hồ để con trai mình luôn nhớ đến thời khắc cha nó hi sinh, nhưng Vidal lại giữ cho chiếc đồng hồ ấy tiếp tục chạy, và một mực phủ nhận câu chuyện về người cha quá cố. Ông ta cố lờ đi thông điệp xuyên thời gian ấy, coi là vô nghĩa. Vidal vẫn cố giữ lại chiếc đồng hồ như một sự nhắc nhớ - có lẽ giống nhiều hơn với một lời cười nhạo chính cha của mình: “Tôi không cần phải nhớ đến cái chết của ông, nhưng tôi không bao giờ tha thứ cho ”. Nhưng thời gian là một chuỗi lặp các sự kiện, đôi phần trong chuỗi lặp ấy là một trò đùa ác của định mệnh. Và Vidal chính là kẻ phải trả giá cho sự nhạo báng bằng việc một lần nữa lặp lại cái chết của chính cha mình.
Giữa cái khung cảnh điên khùng hỗn loạn ấy, thế giới của Ofelia dường như là một nơi chốn bình yên bé nhỏ. Cô bé chìm sâu trong một thế giới diệu kì mà chỉ riêng cô nhìn thấy, chạm vào. Trong thế giới ấy, cô là một nàng công chúa thất lạc tìm về với gia đình. Cô bé mất đi người cha là thợ may trong thực tại, thì ở Vương quốc dưới lòng đất, cô có một người cha khác đang mong chờ. Người dẫn đường cho cô là một sinh vật gớm ghiếc nửa người nửa dê. Hắn trao cho cô một cuốn sách với những lời chỉ dẫn sẽ xuất hiện khi cần, và cô buộc phải làm theo để có cơ hội được trở về.
hãy tin khi tôi nói rằng, nếu nhìn thấy những “thử thách” ấy, bạn không bao giờ còn suy nghĩ “The Pan’s Labyrinth” là một bộ phim mang sắc màu cổ tích diệu kì.
Ba thử thách, ba tấm gương phản chiếu lại những sự kiện thực xảy ra tại trại lính: con cóc sống trong thân cây mục là hình ảnh phản chiếu của những phiến quân sống đời kham khổ thiếu thốn trên núi cao, chiến đấu cho lí tưởng; con quỷ ăn thịt trẻ con với đôi mắt nằm trong lòng bàn tay quờ quạngbữa ăn tối với những quân nhân, mục sư, thị trưởng – những kẻ đứng đầu bộ máy chiến tranh. Và cuối cùng, thử thách hi sinh gắn với việc Ofelia sẽ chấp nhận hay từ bỏ người em trai của mình. Có quá nhiều những trùng hợp, quá nhiều những gợi ý mà cho đến phút cuối cùng, nó giết chết niềm tin của người xem vào một thế giới thần tiên mà Ofelia đang tìm đường đi đến. Chắc chắn sẽ có những lời van xin em dừng lại, nhưng rồi cũng sẽ có những lời xót xa thương một cô con bị loạn trí, mãi lang thang trong thế giới tưởng tượng của mình.
Những kẻ mang một niềm tin mù quáng thì rốt cuộc sẽ chết chìm trong niềm tin ấy. Chỉ tiếc rằng trong tấn bi kịch này, Ofelia và người cha dượng độc tài lại cùng là những kẻ mù quáng kia. Với Vidal, đó là cái giá phải trả, nhưng với Ofelia, đó lại là một cái giá quá đắt. Ofelia cuối cùng cũng quay trở về với Vương quốc dưới lòng đất, được Hoàng hậu với dung mạo giống hệt người mẹ quá cố dang tay đón chào… Nhưng tôi thì không giàu niềm tin vào thế giới huy hoàng tồn tại trong khoảnh khắc ấy. Tôi đứng về phía những người ở lại, phía cô hầu gái Mercedes khóc nấc lên bên cơ thể nhỏ bé đã giá lạnh.
Ofelia xứng đáng một cuộc sống khác, một cuộc đời hạnh phúc bên cha mẹ mình, trong một thời đại yên bình không tiếng súng. Cô bé đã chiến đấu hết mình vì cuộc đời hạnh phúc ấy, một cuộc chiến mà chỉ mình cô tận hưởng được vinh quang chiến thắng. Bên ngoài chiến thắng ấy, Ofelia chỉ là một bé gái, đã chết, ngay trong khoảnh khắc trước khi cuộc chiến tranh kết thúc. Ranh giới vĩnh cửu giữa hai thế giới ấy buộc người ta phải ghi sâu sự tàn khốc mà chiến tranh giáng xuống số phận mỗi con người, đặc biệt là sức huỷ diệt của nó lên số phận những đứa trẻ sinh ra và lớn lên trong lòng nó. Để rồi người ta buộc phải nuốt nước mắt mà thốt lên rằng: Giá như…

Anh Phan.

Thứ Sáu, 12 tháng 9, 2014

“Annabel Lee” của Edgar Allan Poe




Mình khá thích truyện kinh dị của Poe, mảng thơ của ông thì không tiếp xúc nhiều lắm, nhưng cũng mơ hồ biết là trước đây thì có vài ba bản dịch (ví dụ: Lý-Lệ-An của Giáo sư Phạm Văn Quảng hay bản dịch The Raven) tiếng Việt. Với tinh thần trẻ trâu không biết sợ, mình đã tự làm một bản dịch của bài thơ Annabel Lee (tất nhiên là mình dịch, với gợi ý về nội dung từ đây) theo vốn từ và hiểu biết của mình. Hay thì chắc chẳng hay hơn ai, nhưng đảm bảo mới và lạ xD. Mong mọi người sẽ yêu thích nó.


                 Annabel Lee
                              Edgar Allan Poe (1809-1849)

Vào những tháng năm đã lùi xa trong quá khứ
Tại một vương quốc bên bờ biển xanh
Có một trinh nữ mà bạn đã từng nghe tên tuổi
Nàng là Annabel Lee;
Cuộc đời nàng không gì hơn thế
Sống để yêu tôi và sống để tôi yêu.

Tôi thơ trẻ, và nàng cũng thơ trẻ
Tại vương quốc bên bờ biển xanh
Nhưng chúng tôi yêu nhau bằng một tình yêu còn lớn hơn chính nó
Tôi và nàng Annabel Lee của tôi;
Tình yêu nằm trên đôi cánh của thiên thần tối cao
Trọn vẹn thuộc về hai trái tim thơ dại

Và bởi tình yêu ấy, rất lâu sau đó,
Vẫn ở vương quốc bên bờ biển xanh
Gió thổi tan những quầng mây, nàng cóng lạnh
Nàng Annabel Lee tuyệt trần của tôi;
Bởi thế những người họ hàng cao sang của nàng đã đến
Trong nỗi u sầu, tước đoạt nàng khỏi tôi
Và mãi mãi, nàng câm lặng trong mộ đá
Tại vương quốc bên bờ biển xanh.

Những thiên thần, trên thiên đường, không mảy may hạnh phúc
Trở nên ghen tức với tôi và nàng
Đúng! – Lí cho chính là vậy (và như mọi người đều biết
Tại vương quốc bên bờ biển xanh)
Rằng những cơn gió đêm thổi tan mây trời xanh thẳm,
Mang theo nỗi kinh hoàng và giết Annabel Lee của tôi.

Nhưng tình yêu đó còn mạnh hơn cả tình yêu
Của những kẻ già hơn chúng tôi về tuổi tác
Hay những kẻ thông thái hơn nàng và tôi
Và cả những thiên thần cư ngụ giữa thiên đường,
Hay đám quỷ dữ vùi mình giữa biển cả,
Không thể nào chia cắt linh hồn tôi
Khỏi linh hồn nàng Annabel Lee xinh đẹp;

Cho mặt trăng không bao giờ tỏa sáng, mà không mang đến tôi những giấc mơ
Về nàng Annabel Lee xinh đẹp;
Và những vì sao không bao giờ mọc, nhưng tôi vẫn cảm thấy ánh mắt rực sáng
Của nàng Annabel Lee;
Và cả khi những cơn thủy triều đêm, tôi nằm dài bên
Người thương, người thương, cuộc đời tôi và cô dâu của tôi,
Trong hầm mộ giam cầm nàng bên bờ biển,

Trong cỗ quan tài ầm ào sóng đại dương.

S.Icarus dịch (không hề láo)