3
Sau khi băng qua cánh đồng dương xỉ vẫn còn ướt đẫm sương,
tôi tiến vào khu rừng đã hiện ra trước mắt. Khác với rừng trên ngọn núi có ngôi
nhà của tôi – bao phủ bởi những cái cây to với bộ rễ kềnh càng chở trên mình
hàng đống dây leo nhằng nhịt, loại cây chiếm ưu thế ở đây lại là thông và họ
hàng của nó. Thẳng tắp, và toả ra mùi tinh dầu nhè nhẹ. Không khí ở đây có vẻ
loãng hơn phía bên kia của thung lũng.
Tôi bắt đầu thấy khó thở, rồi chóng mặt. Những mảnh cuối
cùng của bữa sáng trong dạ dày tôi chỉ trực trào ngược ra ngoài. Da tay và mặt
tôi bắt đầu nóng lên và ngứa kinh khủng. Tôi loạng choạng ngã xuống một gốc cây
gần đó. Chỉ đến lúc này tôi mới nhận ra không chỉ tay, mặt mà cả quần áo tôi
đều bám đầy một thứ lông màu vàng nhạt. Thứ lông này cũng lơ lửng khá nhiều
trong không khí. Tôi đã quá hấp tấp và bị tấn công. Vội vã đứng lên khỏi gốc
cây, rũ sạch đám lông khỏi người, tôi kinh hãi nhận ra xung quanh chỗ mình vừa
ngồi la liệt những con sâu lông béo múp phủ đầy thứ lông màu vàng nhạt kia. Mỗi
khi vô tình chạm phải chúng, những sợi lông lại bung ra tự vệ.
SÂU RÓM. CHẾT TIỆT.
Tôi vội vã tháo chạy khỏi khu rừng, đầu hoa lên vì thiếu ô
xi, và vì cơn ngứa kinh hoàng. Nháo nhào, tôi ngã vào đám dương xỉ và lăn tròn.
...
Sau cuộc tháo chạy khỏi đám sâu lông lá trong rừng thông,
tôi mất trọn một tuần để chuẩn bị cho cuộc thám hiểm tiếp theo. Một tuần, trong
đó phân nửa thời gian là để những vết sưng phồng xẹp xuống và cơn ngứa dứt hẳn.
Liệu pháp chữa trị duy nhất tôi có được là những búi rong màu xanh thẫm ướt
nhớp nháp vớt được từ dưới lòng suối-sông, một nhánh nước trong chảy ra từ khe
núi mà tôi hay hứng nước. Đám thuỷ sinh có mùi không mấy thân thiện, nhưng tác
dụng làm mát và giảm sưng của chúng thì thật đáng kinh ngạc.
Thời gian còn lại trong số những ngày chuẩn bị ấy, tôi
dành cả ở thư viện “của tôi”. Vượt sông, chạy trốn đám sấu-sói lẩn trốn giữa
những bụi cỏ, đôi lúc, không còn lựa chọn nào khác, tôi đành phải vung rìu chém
chúng. Chiếc rìu với lưỡi cùn mẻ gây ra những vết thương vô cùng kinh dị. Điều
này làm tôi nghĩ đến việc mình cần tìm một cuốn sách nào đó nói về cách làm sắc
lại lưỡi rìu.
Thư viện là một khu nhà, mà so với tất cả những tàn tích
tôi từng nhìn thấy, hoàn toàn nguyên vẹn. Những khối nhà được nối với nhau bằng
những đoạn hành lang dày cỏ, có lẽ đã từng được sơn trắng. Một vài ô cửa sổ bị
vỡ, nhưng không vì thế mà những cuốn sách bên trong nó bị ảnh hưởng. Tôi thường
chui qua một cửa thông gió ở bên hông nhà, đột nhập vào kho lưu trữ, một toà
nhà nằm tách biệt với khu tổ hợp kể trên. Một phần mái kho lưu trữ bị sụp xuống
bởi ngọn của cái cây cổ thụ gần đó. Cái cây đổ nghiêng, tựa hẳn vào ngôi nhà
tội nghiệp. Cái cây vẫn tiếp tục lớn, còn ngôi nhà vẫn oằn mình chờ đợi cái kết
sau cùng của nó. Cá nhân tôi thì mong cái ngày ngôi nhà sập xuống sẽ không bao
giờ xảy đến, vì bên trong nó là cả một thế giới mà tôi vẫn đang cố gắng tìm
hiểu.
Bên trong nhà, không khí khá ẩm. Mùi mốc xộc lên từ những
góc nhà đọng nước. Đây đó, khắp trong ngôi nhà này, những cuốn sách đang dần
mục rữa. Vào mùa mưa, khi cơn lũ làm tôi không thể ở yên ổn trong ngôi nhà trên
sườn núi, thì thư viện này chính là mái nhà yên ấm của tôi. Cũng trong thời
gian ấy, bị giam lỏng trong ngôi nhà to lớn, bên ngoài là cơn mưa xối xả, dòng
sông nước xiết chỉ chực cuốn trôi tất cả mọi thứ vô tình rơi xuống nó, tôi đã
đọc kha khá sách trong thư viện này. Cũng chính trong thời gian này, tôi bắt
tay vào di chuyển sách từ những kho đã bị nước làm ẩm đến một nơi theo tôi nghĩ
là khô ráo hơn – chính là gian phòng trên mái nhà, cho đến khi cái cây đổ phá
tan công sức của tôi, hoàn toàn.
Bây giờ đang là mùa khô – theo nghĩa là nhiều tuần liền
không có mưa, chứ không phải kiểu thời tiết thường được mô tả trong sách. Nhiệt
độ ở đây hầu như không thay đổi, chỉ đều đặn vận hành từ sáng sang tối, từ đêm
sang ngày. Giống như tôi và hành tinh đang giam giữ tôi chỉ đơn thuần đi trên
một cái vòng tròn hoàn hảo mà tâm của nó chính là mặt trời. Tôi cũng chưa bao
giờ thực sự nhìn thấy mặt trời, nó chỉ là một vầng sáng mờ ảo màu vàng chanh
trên nền trời dày đặc mây mù màu xam xám. Cũng tương tự như mặt trời, tôi chưa
bao giờ nhìn thấy mặt trăng và những vì sao. Mặt trăng, đúng hơn là những gì
còn lại của nó trên bầu trời, chỉ là một dải sáng bạc lấp lánh. Nhưng dường như
đó cũng là câu chuyện của hàng chục năm về trước. Người ta đã cho nổ tung mặt
trăng để ngăn chặn một hiểm hoạ nào đó. Nhưng dù gì đi nữa, với tôi bây giờ,
câu chuyện lịch sử ấy cũng không còn quá quan trọng.
Trong ngày đầu tiên ở thư viện, tôi tìm được rất nhiều
sách viết về những cây thông. Phần lớn chúng chỉ ra rằng loại cây này mọc nhiều
ở một vùng gọi là “ôn đới”. Tôi đào sâu hơn trong các tư liệu để tìm hiểu về
loài sâu lông lá sống kí sinh trên thân loại cây ấy. Một loài gây hại. Cách
phòng trừ hiệu quả nhất là phun thuốc. Tôi không có thuốc.
Sau cây thông và loài sâu gây hại, cụm từ “ôn đới” làm tôi
bị ấn tượng. Tôi bắt đầu đọc về các đới khí hậu. Tiếc thay tôi sẽ mãi mãi không
còn cơ hội để chứng kiến chúng: những ngày mùa xuân mưa bụi ấm áp, những ngày
mùa hè nóng nực, mùa thu mát mẻ và mùa đông giá buốt. Chúng tôi – tôi và tinh
cầu này đã đánh mất điều ấy mãi mãi.
Sau hai ngày ở thư viện với những chồng sách về địa lý tự
nhiên, tôi cuối cùng cũng nhớ ra những ghi chép của Zerphy. Sự nhớ ra ấy kéo
theo một cơn tò mò kinh khủng. Tôi tưởng tượng ra cái kén, màu trắng ngà, chờ
đón tôi giữa khoảng rừng màu xanh thẫm. Cái kén có lẽ sẽ là câu trả lời cho mọi
thắc mắc của tôi về Z.
Đêm hôm ấy, bên ngọn lửa nhóm vội từ những thứ cây cành
lấy được trong khuôn viên thư viện, tôi nhấm nháp nốt những quả đào cuối cùng
còn lại trong túi, tay lần giở từng trang giấy nhăn nhúm với nét bút mảnh những
rõ nét của người tên Zerphy.