1
Tôi guồng chân chạy. Phổi
cạn sạch dưỡng khí. Từng nang phổi khô cháy kêu gào ôxi. Nhưng tôi vẫn chạy.
Mải miết. Dường như với mỗi giây chậm trễ, tôi đang tiến gần hơn đến cái chết.
CHẾT.
Một âm thanh thật bình
yên. Một động từ giải phóng tất cả những đớn đau và sợ hãi mà tôi phải chịu
đựng. Không thể tin được, không lâu trước đây, tôi còn khao khát cuộc sống NÀY
– cái cuộc sống mà mỗi giây qua đi đều là một lời tạ ơn cuộc sống.
Phía sau lưng tôi, thứ
sinh vật kinh khủng lai giữa cá sấu và chó sói đang đuổi đến rất gần. Con quái
thú có hàm răng khoẻ với những chiếc răng màu ngà dài và nhọn hoắt của loài
sói, nhưng làn da lại thô nhám và ẩm ướt như thể loài cá sấu lưỡng cư. Những
đặc điểm của hai loài khác biệt cùng tập hợp trên một cơ thể khiến con vật có
một dáng vẻ gớm ghiếc. Tuy nhiên, ơn trời, khác với cái hình dạng vẫn mang dấu
vết của loài cá sấu, con vật không hề biết bơi.
Đôi tai ù đặc của tôi
không còn nghe thấy gì ngoài tiếng đập gấp gáp của quả tim trong lồng ngực. Tuy
nhiên đôi mắt đã gần mờ của tôi vẫn nhìn thấy dải màu xám trắng vắt qua những
búi cỏ cao. Một cú nhảy gấp gáp. Tôi lăn tròn trên chiếc bè tự chế, kết thúc
một cách tuyệt đẹp cuộc đua nước rút của mình với sinh vật kia. Trên bờ sông
lút cỏ, con vật ném vào tôi cái nhìn thù địch.
Nhưng giờ đây, khi bản
thân đang dập dềnh giữa dòng nước, tôi không có lí do gì để sợ nó nữa. Cố gắng
điều hoà cơ thể bằng những nhịp thở sâu, tôi thò tay vào chiếc túi đeo bên hông
– một chiếc túi “xịn” so với tấm ga trải giường trước kia. Trong túi, vật hình
hộp vẫn an toàn tuyệt đối. Tôi đã làm một cuộc hành trình dài đầy hiểm nguy chỉ
vì nó, và thật vô nghĩa nếu nó bị huỷ hoại.
Dòng nước cứ lững lờ
trôi, đẩy chiếc bè xuôi về hạ lưu. Qua vài khúc ngoặt nữa, con sông sẽ đi qua
một cái eo nhỏ ăn sâu vào vách đá. Dòng chảy sẽ đánh dạt chiếc bè vào đó. Và
chuyến thuỷ trình của tôi cũng đi đến hồi kết. Nhưng vào lúc này đây, tôi có
quyền nghỉ ngơi chút đỉnh.
Bầu trời trên đầu tôi cao
vòi vọi, màu xám xanh tĩnh lặng, thứ tĩnh lặng hoà trộn hoàn hảo với màu xanh
lục bủa vây mặt đất. Đây là thế giới mà tôi bị bỏ lại, xanh tươi, đầy sức sống,
nhưng không còn chào đón giống loài chúng tôi – những kẻ đã từng là niềm kiêu
hãnh của hành tinh này.
Tôi về đến nơi trú ẩn an
toàn khi trời vừa sập tối. “Nơi trú ẩn an toàn” – giống như tên gọi của nó, là
một tàn tích còn sót lại sau Biến cố lớn
– sự kiện đã khiến toàn bộ cư dân phải di cư khỏi hành tinh này. “Toàn bộ”, tức
là những người còn sống sót và khoẻ mạnh. Phần còn lại, tôi không muốn nhắc đến
họ, đôi lúc xuất hiện dọc hành trình của tôi, trong hình dạng những bộ xương
bất động, hoặc tệ hơn thế.
Tôi kéo cánh cửa che kín
lối ra vào, lần mò trong bóng tối trước khi nhóm được lửa. Sau khi rời khỏi Căn phòng chắp
vá, đây là mái ấm mới của tôi. Chỉ khác là giờ đây tôi hoàn toàn cô độc. Chiếc
bồn tắm và ánh điện vàng ủng trong căn phòng ẩm thấp giờ hoá ra là thứ tiện
nghi xa xỉ mà tôi vĩnh viễn đã đánh mất, cũng như đã đánh mất người bạn đồng
hành của mình. Tuy nhiên, suy nghĩ về việc một ngày nào đó sẽ tìm lại được Z
khiến tôi cảm thấy được an ủi rất nhiều.
Sau khi ra khỏi Căn phòng
chắp vá, điều tuyệt diệu nhất tôi từng có được, chính là hi vọng được gặp lại
Z.
Trong vòng hai tuần đầu
từ khi ra khỏi nơi ở cũ, cơ thể, và cả tâm hồn tôi dường như rơi vào một trạng
thái không cảm xúc. Mọi giác quan và xúc cảm của tôi đều tê liệt bởi nỗi cô
đơn, bởi ham muốn được trò chuyện… và trên hết, là nỗi tuyệt vọng khi nghĩ rằng
Z đã chết. Tôi tìm thấy túi đồ và những món vũ khí của Z rơi rớt không xa cách
lối vào căn hầm kia. Tất cả đều nguyên vẹn, không có dấu hiện của một cuộc
chiến khốc liệt, mà phần thua thuộc về chủ nhân những món đồ. Chúng nằm ở đó,
được sắp xếp một cách ngay ngắn, bên cạnh đôi ủng mơ ước của tôi. Z sẽ đi được
bao xa nếu bỏ lại những món đồ ấy, và trên hết, là đôi ủng kiểu nhà binh của
cô?
Tôi đã đi tìm Z cho tới
hết mùa đông năm ấy, vẫn ở trong Căn phòng chắp vá, như níu kéo một thứ hi vọng
mong manh về sự trở lại không tưởng của chị. Cho tới mùa xuân sang năm, khi bên
ngoài căn hầm, khung cảnh thay đổi đến chóng mặt, từ một màu xám tro vô sắc trở
thành vô vàn sắc xanh rực rỡ. Nhưng cũng giống như mùa đông dài trước đó, không
có một âm thanh nào lọt được đến đôi tai tôi. Thế giới mới là một tấm thảm xanh
lục tĩnh lặng.
Hi vọng đến với tôi vào
một ngày, khi lẫn lộn trong những ghi chép rất dài trong cuốn sổ nhật kí – có
lẽ cuốn sổ được Z tìm thấy đâu đó giữa những cuộc phiêu lưu, tôi tìm thấy những
dòng chữ nói về một thứ ánh sáng xanh rọi xuống từ trên trời, hút lấy những
sinh vật sống bên trong nó. Vài trang bị xé bỏ. Và sau đó là nét chữ to cộ thân
quen của Z. Nét chữ như… cố tình để tôi đọc được.
Phần Z viết không nhiều,
có lẽ vì chị buộc phải ghi chép lại chúng khi nhận thấy nguy hiểm đã gần kề.
Một vài lời chỉ dẫn ngắn
gọn, dẫn tôi đến một nơi lưu trữ, một thứ gì đó gọi là “Thư viện” nằm vắt qua
một con sông xa về phía nam của căn hầm. Phần còn lại, Z nói về việc tia sáng
xanh lại xuất hiện, và chị dường như đã bất lực trong việc chạy trốn nó…
Tôi đã tuân theo mọi chỉ
dẫn của Z. Thời gian cứ thấm thoắt trôi đi, và giờ đây, tôi đã đi vừa đôi ủng
kiểu nhà binh mà chị để lại. Tôi đã đi vừa đôi giầy mà tôi khao khát năm xưa.
Thứ tôi mang về ngày hôm
nay từ thư viện ấy, là một chiếc hộp gỗ. Bên trong hộp là tập tài liệu chép tay
của một người có tên Zerphy1123 – cái tên mà khi đọc lên, nó gợi cho tôi cảm
giác thân thuộc, như thể đang phát âm cái tên của Z.
Tháo giày, chui vào trong
chăn, nhấm nháp vài thứ quả hái lượm được trong vườn – khu vườn chính tay tôi
gây dựng một năm về trước, tôi bắt đầu đọc những tài liệu kia.
2
“Tôi là Zerphy1123, người chép sử. Tôi từ chối quyền di cư lên hành
tinh Celestia và nhận nhiệm vụ ghi chép lại sự hồi phục của Tinh Cầu sau sự
kiện Biến cố lớn đã làm biến đổi phần lớn hành tinh này”
.
.
.
.
Tinh Cầu, ngày thứ… sau Biến cố lớn.
Tôi tìm thấy một cái kén trôi dạt trên biển sông. Cái kén làm bằng kim
loại và nhựa dẻo, đồng nghĩa với việc nó là sản phẩm nhân tạo. Không có thông
tin tham khảo để xác định nguồn gốc cái kén. Tuy nhiên ban đầu nhận định, bên
trong cái kén là một sinh vật sống. Tôi không phải người duy nhất tồn tại trên
hành tinh này…”
Một cơn gió lạnh thổi qua
khe hở giữa những đoạn dây leo ken dày trên cái trần nhà nát banh và mất mái,
làm ngọn lửa nhóm giữa những phiến đá quây tròn nhảy múa dữ dội. Tôi bỏ rơi tập
tài liệu, nín thờ, nắm lấy chiếc rìu dựng cạnh bên. Sự cô độc đồng nghĩa với
cảnh giác cao độ trước bất kể động tĩnh nào, dù là nhỏ nhất. Tôi đã mạnh lên
nhiều, nhưng không vì thế mà tôi an toàn.
Thời gian trôi đi. Không
có dấu hiệu của nguy hiểm. Những thớ cơ căng cứng dần thả lỏng. Cơ thể tôi quay
về trạng thái nghỉ. Lại nằm vật ra ghế - chiếc ghế dài đã bục chỉ, thủng lỗ
chỗ, lòi cả lò xo ra ngoài, nhưng không vì thế mà bớt tiện nghi. Tôi cầm lấy
tập tài liệu, đọc tiếp vài trang trước khi chìm vào giấc ngủ.
Đêm ấy, tôi có một giấc
mơ kì lạ, về một khoảng không vô tận màu xanh đen, lấp lánh những hạt ánh sáng
nhiều màu. Tôi đang nằm trong một cái kén, trôi dạt. Ở khoé mắt tôi, hình ảnh
về một công trình đồ sộ hình trứng đang mờ nhạt dần… Tôi biết mình bị lưu đày,
vĩnh viễn.
Bình minh đánh thức tôi
bằng những tia nắng màu vàng chanh xuyên qua những kẽ hở trên trần nhà, xuyên
qua khoảng không với những hạt bụi trắng lơ lửng, cuối cùng rơi xuống mí mắt
tôi. Tôi khẽ cựa quậy. Chiếc ghế tuy là một món đồ tiện dụng, nhưng không phải
vì thế nó không khiến những đầu ngón chân của tôi tê dại vào mỗi buổi sáng sớm.
Nằm im trên giường cho tới khi những đầu ngón chân có lại cảm giác, tôi sửa
soạn cho một cuộc hành trình mới.
Vẫn là những món đồ đã
quá quen thuộc: chiếc rìu với phần lưỡi đã sứt mẻ đôi chỗ, túi đeo qua vai,
những thứ vũ khí Z bỏ lại, chiếc khăn xanh làm từ ga trải giường – vật hoá ra
vô cùng hữu dụng trong việc nguỵ trang giữa rừng, và đôi giày kiểu nhà binh của
Z.
Công việc hôm nay không
có gì nhiều. Đi lên khu rừng phía bắc. Một cuộc tản bộ và tìm kiếm những manh
mối vô hình. Tôi cần những ví dụ trực quan cho những điều mình đã đọc được.
Theo những ghi chép của
người có tên Zerphy, chiếc kén đã rơi xuống khu rừng ấy.
Vung tay kéo mạnh cánh
cửa kim loại – cánh cửa mà giờ chỉ dùng một tay tôi cũng có thể đóng lại, tôi bước
vào khu vườn của mình.
“Vườn” là một danh từ
dùng để chỉ nơi mà con người trồng, chăm sóc và thu hoạch rau quả hay hoa màu.
Cuốn sách của tôi nói như thế. Tôi đã mang về khu vườn của mình một vài bụi cây
có màu sặc sỡ, sau khi gần như chắc chắn rằng chúng không nguy hiểm; một vài
cây hoa, và những cái cây lớn hơn cho thứ quả ăn được. Một trong số chúng khá
giống với hình vẽ quả đào trong sách. Vậy là tôi đã có khu vườn và một cây đào.
Tôi hái một vài trái đào
trên cây, chúng chín mọng, thơm phức với lớp vỏ mịn màu hồng hồng xinh xắn. Bỏ
chùm quả vào trong túi, tôi đã sẵn sàng để lên đường.
Giữa nơi tôi ở và khu
rừng là một cánh đồng dương xỉ rộng lớn. Những cây dương xỉ cao ngang tầm thân
tôi, với cành lá toả rộng, loà xoà. Giữa những bụi dương xỉ ấy là những chiếc
lá non cuộn tròn với lớp lông mịn mọng nước. Hoàn toàn có thể ăn những chiếc lá
non ấy thay cho uống nước, trừ việc mùi vị của chúng thật tệ hại. Tôi không
nghĩ mình cần dùng đến cách tiếp nước ấy khi mà tôi có cả một biển sông ở bên
cạnh. Cũng đã vài lần tôi bắt được cá từ dưới biển sông. Nhưng đó là chuyện hi
hữu và dường như không cần thiết, bởi cơ thể tôi vẫn vận hành tốt khi nạp năng
lượng từ những thứ quả trong vườn.
Sau khi băng qua cánh
đồng dương xỉ vẫn còn ướt đẫm sương, tôi tiến vào khu rừng đã hiện ra trước mắt
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét