Chú mèo trở lại
![]() |
Ảnh "chôm chỉa" từ FB anh Tidus - nguyên mẫu nhân vật của mềnh |
Phố ven hồ, vắng vẻ. Những căn biệt thự đồ sộ im lìm
giữa những khuôn viên mênh mông cây lá. Trời tháng sáu nắng như đổ lửa, nhưng
chẳng có cây sấu già nào thả những chiếc lá non như trong lời bài hát đẹp như
tranh của Đỗ Bảo. Tôi tựa đầu vào tấm kính cửa mờ mờ bụi, cánh mũi khụt khịt vì
thứ không khí khô lạnh ướp mùi nước hoa rẻ tiền bên trong chiếc taxi màu hồng
chói loá.
Trong tai nghe, Trần Thu Hà vẫn rót vào tai tôi những
giai điệu du dương của Bài ca tháng sáu. Phía ngoài xa xa, mặt nước hồ phản chiếu
ánh trời, xanh biêng biếc.
Ngôi nhà mới của chúng tôi – từ “mới” hiểu theo nghĩa
của câu “Cũ người mới ta” nằm trên một trong vô vàn những con phố nhằng nhịt
đan cài vào nhau và quay mặt ra phía hồ. Mất hai ngày để chúng tôi chuyển hết đồ
đạc của một gia đình gồm ba người, và mất nhiều thời gian hơn nữa để từng thứ
trong đống lộn xộn ấy vào đúng vị trí của chúng trong căn nhà hai tầng với sân
thượng rộng thênh thang.
Hành trang của tôi trong chuyến xê dịch này, ngoài những
thứ vật dụng hàng ngày, một nghìn cuốn sách, còn có cả một “khu vườn” nhỏ bé mà
đồ sộ do chính tay tôi vun trồng. Khu vườn ấy là trái tim của tôi, là quá khứ của
tôi, là tất cả những gì níu giữ tôi với những kí ức đẹp nhất của mình. Là khu
vườn, chứ tuyệt nhiên không phải con người. Hoặc giả là con người, nhưng tôi vẫn
còn quá trẻ, quá đủ đầy để có thể nhận ra.
Đôi lúc, tôi hoang mang với suy nghĩ, liệu tôi có đang
quá tàn nhẫn, quá lạc lõng với cuộc sống quanh mình? Hay tôi là kẻ duy nhất mặc
quần áo trong một khu thương mại đầy rẫy những kẻ ở trần? Tôi đã từng kể cho bố
mẹ nghe những nỗi sợ hãi ấy. Đó là lần đầu tiên tôi nhận ra bản thân mình cô
đơn và thiếu vắng sự sẻ chia đến như thế nào giữa tinh cầu 9 tỉ dân này.
Đó là câu chuyện của những ngày tháng 6, khi khu vườn
của tôi xác xơ vì nắng, và vì đột ngột bị bứng đi khỏi nơi chốn thân quen của chúng
– cái chuồng cọp chật hẹp trên tầng hai của một khu tập thể cũ kĩ đã vĩnh viễn
không còn tồn tại. Tôi đánh dấu sự kiện ấy bằng việc trồng một cây chanh leo ở
góc sân – nơi bố tôi đã kì công cậy những khuôn gạch nung vuông vức lên, đổ đất
xuống và biến nó thành một khu vườn.
Tháng 7. Tôi đã không còn bị lạc giữa những ngả đường
“na ná nhau” đầy rẫy xung quanh khu nhà tôi sống. Cùng là những ngôi nhà cao tầng
xây san san, cửa gỗ, cửa sắt, thậm chí cả cửa cuốn hai lớp luôn đóng im lìm,
trước cửa mỗi căn nhà sẽ có đôi ba chậu cây, lắm lúc là những thùng xốp sứt mẻ
- dấu vết còn sót lại của phong trào trồng rau sạch rộ lên một thời gian trước,
vài cây rau còi cọc lẫn với cỏ dại. Cỏ mọc tốt hơn rau.
Việc không còn bị lạc giữa các con đường có ưu điểm là
đã tiết kiệm cho tôi rất nhiều thời gian hay công sức, nhưng nó cũng tước bỏ của
tôi cái quyền được thấy thế giới quanh mình thật bao la, mới mẻ và nhiều điều để
khám phá thay vì một cái thở dài chán nản. Tôi nghĩ về điều ấy như một ân huệ,
một niềm háo hức. Nhưng rõ ràng những điều ấy cuối cùng cũng đã bị tước đoạt khỏi
tôi.
Tháng 8. Tôi bắt đầu học kì mới tại một ngôi trường xa
lạ. Cây chanh leo đã lên xanh kín giàn.
Tháng 9. Chúng tôi có một tuần nghỉ trước khi học kì mới
thực sự bắt đầu. Lũ trẻ đang quay cuồng trong cái nhịp đều đặn của quy trình
trường học – trung tâm A – trung tâm B chưa kịp vui mừng vì chuỗi ngày nghỉ hiếm
hoi thì đã nhanh chóng rơi vào sự trống trải và bứt rứt chân tay, khi đột nhiên
chúng có trong tay quá nhiều thời gian để ngơi nghỉ - thứ mà bấy lâu nay chúng
luôn khao khát.
Tôi dành những ngày nghỉ của mình để nằm dài trên giường,
đọc đôi ba cuốn tiểu thuyết cũ sờn trên giá sách của bố, hoặc ngồi hàng tiếng đồng
hồ trên sân thượng mà chẳng để làm gì. Tôi chỉ nhìn lên bầu trời, cảm nhận mình
đang từng chút, từng chút một tan biến vào sắc xanh ấm áp kia. Đôi lúc, xen giữa
những khoảnh khắc tĩnh lặng ấy của tôi, mẹ sẽ xuất hiện, vẻ thăm dò và sợ hãi.
Mẹ xuất hiện chỉ để đảm bảo rằng tôi đang không: 1, Chuẩn bị nhảy từ trên sân
thượng xuống 2, Đang xem phim ảnh đồi truỵ 3, Đang chuẩn bị cắt cổ tay hay
tròng dây thừng vào cổ… Ngoài ba việc ấy, tôi có thể thoải mái làm bất cứ điều
gì mình muốn.
Cuộc sống của tôi, thời gian của tôi, thậm chí cả cuộc
đời tôi sau này, tưởng chừng như sẽ mãi mãi dừng ở những ngày tháng ấy, với một
người mẹ mà tình yêu thương dành cho tôi đồng nghĩa với nỗi sợ hãi sự nổi loạn
hay cái chết, với những lời cảnh báo về triệu chứng xa lánh xã hội từ một vị
bác sĩ thần kinh nào đó mà thậm chí cả cái tên được in trên mảnh kim loại sáng
bóng cài trên chiếc áo blouse trắng của ông ấy tôi cũng không thể nhớ được.
Đó là một ngày tháng 9, khi mà giàn chanh dây của tôi
đã tạo thành một mái vòm màu xanh mát mắt phủ kín một góc sân. Khi tôi đang ngồi
tha thẩn dưới giàn cây ấy, xúc đất vào đống chậu nhựa xanh đỏ đủ màu, thì một
âm thanh kì lạ đã làm tôi chú ý.
Tôi ngẩng đầu nhìn về phía có tiếng kêu. Và tôi sững sờ.
Lần giữa vòm lá là một cục lông màu vàng nâu có đôi mắt to, trong vắt màu xanh
biển. Đôi mắt ấy đang hướng về tôi những cái nhìn sợ hãi nhiều hơn là đe doạ. Ở
góc độ của mình, tôi có thể cảm thấy từng thớ cơ trên cơ thể cục lông ấy đang
căng ra, chỉ chờ một cú lao mình, để chạy trốn, hoặc tấn công.
Con mèo cứ nhìn tôi, chăm chú, như thể chỉ một giây lơ
là, nó hoặc tôi có thể bất ngờ tấn công và giết chết đứa còn lại. Chưa bao giờ
tôi nhìn thấy một con mèo ở cự li gần như thế. Nguyên do lại là vì lời chẩn
đoán của một ông bác sĩ nọ khi tôi còn là một đứa bé, rằng hệ hô hấp của tôi
không được tốt, và dễ dàng rối loạn chỉ bởi một sợi lông mèo vô hại. Và thế là
tèn ten… từ đó trở đi, tôi không bao giờ có cơ hội được chạm vào bất cứ loài động
vật nào, ngay cả nhìn ngắm chúng trong sở thú.
Tôi thích thú thật sự với con mèo. Nó khiến tôi nhớ đến
chính mình. Tôi giơ tay về phía con mèo, mong muốn được chạm vào lớp lông ấm mềm
của nó. Con mèo kêu lên một tiếng, lao vào tôi, để lại trên cánh tay tôi ba vết
xước đều đặn, rớm máu.
“Khỉ thật!” – Tôi buột miệng thốt lên, xoa xoa chỗ vết
thương đang rỉ máu, mắt nhìn theo cái cục lông lá màu cam đang vọt đi.
Xung quanh khu nhà tôi ở, có khá nhiều mèo hoang – những
con mèo, hoặc may mắn sống sót sau khi bị vứt bỏ ngay lúc vừa mở mắt, hoặc bị
xua đuổi bởi chính chủ nhân đã từng yêu quý nó, thường giễu qua giễu lại trước
mắt chúng tôi với bộ dạng hoặc bẩn thỉu lở lói, hoặc gầy xác xơ khoe ra những dẻ
xương sườn ôm lấy lồng ngực phập phồng. Mẹ tôi, sau khi sát trùng những vết
cào, nhất quyết bắt tôi đi tiêm phòng dại bởi nỗi ám ảnh về những con mèo
hoang. Nhưng tôi tin cục lông màu da cam đã viếng thăm tôi hôm trước không nằm
trong số những con mèo khốn khổ ấy.
Sau cuộc gặp gỡ bất ngờ dưới giàn chanh leo ấy, tôi bắt
đầu để ý hơn đến đám mèo xung quanh nhà. Cục lông màu cam luôn xuất hiện ở đó,
lúc thì nằm dài trên một bờ tường sứt sẹo, lúc lại đứng từ xa nhìn chằm chằm
vào tôi từ bãi đất trống phía đối diện – bãi đất này vốn là nền của một căn nhà
đã bị phá sập. Khoảng cách giữa tôi và cục lông cứ ngày một ngắn dần. Tôi bắt đầu
nghĩ cục lông màu cam ấy muốn làm thân với mình. Chúng tôi thiết lập được mối
liên hệ đầu tiên khi tôi mang cho cục lông một mẩu xúc xích ngăn ngắn rút ra từ
ruột chiếc bánh mì đang ăn dở.
Khoảng một tuần sau “mẩu xúc xích tình bạn” ấy, cùng
vô số những mẩu xúc xích khác, cục lông cho phép tôi sờ vào lớp lông mềm khen
khét mùi nắng của nó. Một chiều nắng nhẹ, khi đang ngồi lê la ở bãi đất, với cục
lông nằm cuộn tròn trong lòng, tôi đột nhiên nảy ra ý tưởng sẽ đặt tên cho nó.
Cục lông sẽ chỉ thực sự thuộc về tôi khi tôi đặt cho nó một cái tên. Cái tên thể
hiện sự sở hữu, như thể…
“Ti ơi!”
Cục lông vàng đang nằm cuộn tròn trên người tôi cựa quậy.
Rồi khác hẳn với cái vẻ lười biếng bất cần hàng ngày, nó vụt đứng dậy, chạy về
phía có tiếng gọi. Tiếng gọi cất lên từ miệng một cậu bé, thực ra là một thiếu
niên, có lẽ bằng tuổi tôi. Áo hoodies đen, quần lửng kiểu bụi phủi một trăm cái
túi – kiểu quần mà người ta chú tâm tới tính tiện dụng của nó hơn là chăm chăm
vào tính thẩm mỹ, dép tông đã cũ sờn. Cậu ta cầm trên tay một cái âu to đựng thứ
gì đó như thể thức ăn cho lũ mèo.
Một chút gì đó như sự ghen tị trỗi dậy trong lòng tôi
khi chứng kiến cảnh cục lông vàng lượn đi lượn lại uyển chuyển giữa hai chân cậu
ta, cái đầu cô ả dụi dụi vào cẳng chân lông lá đầy nũng nịu.
“Du ơi, Mông ơi, Cà ơi…”, gã kì quái lại tiếp tục gọi.
Và như thể phép thuật từ chiếc sáo thần của người gọi rắn, một đàn mèo lố nhố từ
đâu chạy đến, như thể đàn bồ câu sà vào đám vụn bánh mỳ vừa được vung ra.
Gã kì cục cho đám mèo ăn, rồi thản nhiên ngồi phịch xuống
nền đất lát những viên gạch hoa màu xanh ngọc – vốn từng là nền của một căn nhà
đã bị phá bỏ. Tôi phì cười khi cụm từ “mất vệ sinh” xuất hiện trong đầu tôi
cùng lúc với việc tôi nhớ ra mình cũng đang “toạ” trong một trạng thái tương tự.
Tiếng cười khiến người lạ mặt chú ý, hoặc buộc phải tỏ
ra chú ý. Tôi thiên về vế sau của phán đoán vì không lẽ gì mà hắn không thể
nhìn thấy tôi ngồi giữa một mảnh đất rộng chừng 50 mét vuông. Hắn nhìn tôi chăm
chăm. Rồi đứng dậy, tiến về phía tôi.
Cất lời chào, bỏ chạy, hay thụi cho hắn một cú đây? –
Não tôi lập tức đưa ra ba lựa chọn. Hẳn mặt tôi lúc đấy phải đần độn lắm. Hắn
ngồi xuống bên cạnh tôi, như thể đây không phải lần đầu tiên chúng tôi chạm mặt.
“Ti nói nó thích cậu lắm!”
“Hả?” – Tôi ú ớ. “Thụi cho hắn một cú rồi bỏ chạy” –
Não tôi đưa ra kết luận.
“Con mèo vàng mà cậu vẫn hay cho ăn ấy.” – Lại một
thông tin được hé lộ.
“À…”. Có vẻ gã này an toàn, tôi trấn an bộ não đang
căng ra của mình. “Đây là mèo nhà cậu hết hả?”
“Tất cả chúng đều là bạn tớ. Nhưng chẳng có đứa nào
trong số đấy là của tớ hết. Chúng nó đều là mèo hoang. Khoảng sân này là nhà của
chúng nó.”
Tôi định nói gì đó, rồi lại im lặng. Một cơn gió thoảng
thổi vào từ phía hồ, luồn lách qua những ngõ hẹp, vụt qua trán tôi, chỉ vừa đủ
để có thổi bay vài sợi tóc mái loe hoe. Nhưng trong lòng tôi, có điều gì đó đã
thay đổi.
Tôi sẽ mãi mãi nhớ về buổi chiều hôm ấy, như nhớ về cậu
bạn kì cục và đàn mèo hoang kia.
“Cậu tên là gì?”
“Tii.”
“Gì cơ?”
“Tii. Chỉ thế thôi.” – Cậu bạn nói với tôi, rồi cười.
Đôi mắt cậu thật sáng, sâu hun hút vào hàng lông mi dày ẩm ướt. Đôi mắt ấy đang
khép lại thành một đường mảnh vì cười. Cậu trả lời câu hỏi của tôi, rồi quay
lưng đi, đóng vai trò một người dẫn đường sành sỏi.
Đó là một ngày cuối tháng 9, chúng tôi, mà thực ra chỉ
có tôi, cùng làm một chuyến thám hiểm nho nhỏ vào sâu hơn cái khu dân cư mà tôi
ngỡ mình đã thuộc nằm lòng.
Đầm sen nằm kẹt giữa một phía là khu công viên ồn ào,
phía còn lại là con đường ven hồ với hàng lan can màu xanh lơ điểm những vệt đỏ
rỉ sét. Tuy không lớn như những gì tôi từng tưởng tượng về một cái đầm mọc toàn
sen, nhưng không khí trong mát thoảng mùi lá sen làm tôi thực sự dễ chịu. Một
thứ cảm giác mới mẻ khác hẳn với những khoảnh khắc hoàn-toàn-trống-rỗng tôi từng
trải qua trên sân thượng, với bầu trời. Lẫn giữa màu xanh của trời, của lá, là
cái lưng áo của Tii. Vẫn là chiếc áo hoodies màu đen lấm tấm những sợi lông mèo
màu vàng nhạt, trắng ngà hay xám tro, vẫn là sự an toàn và chở che mà tôi đã từng
cảm nhận được trong ngày đầu tiên chúng tôi gặp nhau khi cậu cho đàn mèo hoang
ăn trong chiếc chậu sắt kì cục.
Thoảng trong gió, tôi đã nghĩ mình ngửi thấy mùi của
Tii lẫn trong mùi của những chiếc lá sen cuối mùa hạ. Một thứ mùi mà đôi khi
tôi cũng ngửi thấy từ chính mình. Mùi của kẻ cô đơn.
“Cậu không đi học hả?” – Tôi hỏi bâng quơ trong một ngày
khác, khi chúng tôi đang ngồi trong nhà Tii, tôi cầm đèn pin trong khi cậu chui
vào gầm giường và bế chú mèo gầy gò tới độ từng khớp xương nhô lên khỏi làn da
mỏng như giấy. Chú mèo ấy là thành viên mới nhất trong đại gia đình mèo của
Tii. Cậu nhặt nó về từ một bãi rác phía bên kia hồ, trong tình trạng dở sống dở
chết. Tôi đã nghĩ, nếu đó là mình, thì tôi sẽ không bao giờ dừng lại vì những
điều như thế. Nhưng Tii đã làm, một cách dịu dàng và kiên nhẫn. Như cái cách cậu
đã làm với Ti, với Du hay bất cứ một chú mèo nào từng một lần đến sống ở cái nền
nhà lát gạch hoa xanh phía đối diện nhà tôi.
“Đi học á?” – Tii nhắc lại câu hỏi. Như thể cậu đã quá
quen với nó. “Tớ nghỉ học từ lâu lắm rồi. Trường học không có thứ mà tớ tìm kiếm.
Cậu bế giúp tớ con mèo vào nhà tắm nhé. Cẩn thận không bẩn đấy, nó ị lung tung
ra đây rồi.”
Tôi nhận con mèo từ tay Tii, cảm nhận được sự run rẩy
của sinh vật tội nghiệp truyền qua từng đốt ngón tay mình.
Vậy là những gì mẹ tôi nói không hoàn toàn là bịa đặt.
Ngay từ khi nhìn thấy Tii, mẹ đã cảnh báo tôi, bằng những lời từ bóng gió cho tới
trực tiếp, rằng có một đứa du đãng ở quanh khu này. Nó bỏ học và lêu lổng. Và
nó đang cố lôi kéo tôi vào con đường hư hỏng giống nó.
Tôi nhìn chàng trai đang lúi húi lau lau dọn dọn, miệng
vẫn không quên kể cho tôi nghe từng nét tính cách mà cậu phát hiện ra ở chú mèo
trắng mình cứu về trong những ngày vừa qua, nết ăn, nết ngủ, thậm chí cả sự sợ
hãi và đề phòng của nó với cậu… Càng nhìn, tôi càng không thể nhận ra bản miêu
tả chân dung tội phạm của mẹ tôi có gì giống với Tii. Tôi đưa tay lướt qua những
phím đàn bám bụi của chiếc dương cầm hộp đứng kê bên cửa sổ. Một chuỗi những âm
thanh lạc lõng vang lên, dội vào những góc tường trống hoác.
“Tâm đấy hả?” –
Có tiếng gọi khẽ khàng cất lên từ phía sau lưng tôi. Một phụ nữ. Não của tôi
đưa ra suy đoán, hẳn người đó phải là mẹ của Tii. Nhưng có gì từ bác ấy làm tôi
thấy rờn rợn. Sự sợ hãi giống như khi bạn còn bé xíu, và đột nhiên có một người
bị “dở hơi” lao về phía bạn.
“Á, cháu chào bác ạ!” – Tôi lúng túng. Không hiểu vì cảm
giác sợ hãi thường thấy khi giáp mặt với các phụ huynh, hay vì đột ngột nhìn thấy
một phụ nữ với xiêm y như thể bước ra từ một bức tranh tường của Kỷ nguyên Ánh
sáng, hay vì đột ngột biết được tên của Tii.
“Tâm! Tâm ơi! Tâm! Con đâu rồi hả Tâm?” – Trước sự bất
ngờ của tôi, mẹ của Tii đột ngột hét lên, vật vã như thể sẽ không bao giờ nhìn
thấy con trai mình nữa. Tôi luống cuống, hốt hoảng, cố trấn an người phụ nữ kì
lạ đang gào khóc.
Tii xuất hiện, giải thoát cho tôi khỏi tình thế ngặt
nghèo. Cậu chỉ nói đơn giản “Phiền cậu về giúp tớ nhé!”. Cái cảnh Tii từ tốn và
kiên nhẫn an ủi người mẹ đang khóc gợi ra trong đầu tôi một ý tưởng khó chịu, rằng
Tii dịu dàng với tất cả những ai cần cậu, không quan trọng đó là một chú mèo
hoang, hay một người mẹ đau ốm ăn vận như thể đang tham gia vào dạ tiệc
Halloween.
Tôi kiên nhẫn đợi Tii, buổi chiều hôm đó, chiều hôm
sau, chiều chiều, ngày này qua ngày khác, trên cái khoảng đất vốn từng là nền
nhà lát gạch men xanh. Lũ mèo vẫn quấn lấy tôi, nhưng trong số đó, đột nhiên
không thấy cục lông màu vàng. Tôi cố gắng phân tích những cảm xúc đang dâng lên
trong lòng, bới tìm giữa những lo lắng, thất vọng, dằn dỗi những thứ gì đó của
Tii. Tôi nhớ cậu.
Tới ngày thứ mười, khi tôi gần như tuyệt vọng về việc
gặp lại hay chờ đợi Tii, thì cậu xuất hiện, vẫn trong chiếc áo hoodies màu đen
dính những sợi lông mèo. Tii béo lên, cứ như thể trong mười ngày vừa qua, cậu
chỉ ngồi trước màn hình máy tính và ăn tất cả những gì cậu có trong tủ lạnh.
Lời chào của Tii dành cho tôi là một nụ cười. Chỉ đến
lúc này tôi mới nhận ra Tii thật đẹp.
“Đã lâu không gặp” – Tôi đáp lại bằng một thứ giọng cọt kẹt như
máy móc khô dầu.
“Ừ”
Cuộc gặp gỡ không như tưởng tượng đẩy tôi vào tình thế
kì cục. Tôi vừa giận điên người trước sự lạnh lùng của Tii, nhưng cũng muốn tự
đánh mình một cái vì đã thốt ra những lời khiếm nhã. Tii ngồi xuống bên cạnh
tôi. Bầu không khí giữa hai người trở nên kì lạ đến đỉnh điểm.
“Cậu không đi học à?” – Tii hỏi tôi.
“Cũng như cậu thôi. Trường học không cho tớ câu trả lời
xứng với mong đợi.” – Tôi đáp.
“Cậu thù dai vãi” – Tii phì cười. Mấy ngày vừa rồi tớ
bận làm.
“Làm á?!” – Giọng tôi cao lên một cách bất thường. Một
học sinh cấp ba, thậm chí còn bỏ học có thể làm được một nghề gì cụ thể chứ?
“Ờ. Tớ vẽ. Minh hoạ sách, hình chibi, tranh truyền thần…
tất cả những thứ người ta yêu cầu và tớ có đủ khả năng để đáp ứng.” – Tii đáp lấp
lửng.
“Tại sao cậu không đi học nữa?”
“Thế tại sao cậu lại đi?”
Tôi im lặng. Xấu hổ. Và tức giận. Có lẽ Tii cũng không
thể ngờ rằng câu hỏi của cậu đã đánh trúng điểm yếu trí mạng của tôi. Tôi đi học
để làm gì gì? Bấy lâu nay tôi đã quên đi câu trả lời.
“Vì tớ thích trường học… Nhưng tớ không thích mọi người
ở đấy.” – Tôi đáp, cấm cảu.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét