Từ bộ tiểu thuyết giả tưởng đầu tiên về
đề tài du hành vũ trụ của Jules Verne năm 1865 (tựa đề De la terre à la lune – tạm
dịch: Từ Trái Đất lên Mặt Trăng) cho tới bộ phim câm năm 1902 của đạo diễn Georges Méliès có tên Le Voyage dans la Lune (tạm dịch:
Hành trình đến Mặt Trăng), và rất nhiều những tác phẩm văn học hay điện ảnh sau
này, loài người dường như có một khát khao không bao giờ vơi cạn được khám phá
và am hiểu tường tận Mặt Trăng - tinh cầu bí ẩn nhưng cũng quá đỗi thân quen.
Và cuốn 172 giờ trên Mặt Trăng của nhà văn người Áo – Johan Harstad có thể coi
như một tiếp nối đầy ấn tượng.
172 giờ
trên Mặt Trăng diễn ra trong bối cảnh
NASA khởi động lại chiến dịch đưa con người quay trở lại khám phá Mặt Trăng, tiếp
tục sứ mệnh bị bỏ dở từ thập niên 70. Trong lần quay trở lại này, phi hành đoàn
không chỉ bao gồm các phi hành gia được đào tạo bài bản mà còn có ba thiếu niên
được lựa chọn ngẫu nhiên trong số hàng triệu thiếu niên đáp ứng đủ các yêu cầu.
Nhóm thiếu niên được đưa vào chương trình một mặt nhằm lôi kéo sự chú ý của
giới trẻ và truyền thông, trong nỗ lực phục hưng lại ngành nghiên cứu tưởng như
đã trôi vào dĩ vãng này. Một kế hoạch được tính toán vô cùng tinh vi, tưởng
chừng như không có bất kì một sai sót, tất cả, ngoại trừ việc không một ai biết
chính xác điều gì đang chờ đợi họ ở Biển Yên Bình – vùng biển cạn trên bề mặt
Mặt Trăng.
Ba thiếu niên gồm Mia (người Na Uy), Midori (người
Nhật) và Antoine (người Pháp) là những người giành được tấm vé lên Mặt Trăng
đầy mơ ước. Tuy nhiên với mỗi người trong số họ, sứ mệnh này lại có những ý
nghĩa rất khác nhau. Với Mia – cô ca sĩ của một nhóm nhạc Rock địa phương, thì đó
là một cơ hội để đưa sự nghiệp của mình sang trang mới, trong khi với Midori –
cô gái với khát vọng nữ quyền, Mặt Trăng là tấm vé giải thoát khỏi cuộc đời
trưởng thành nhàm chán đã bày ra trước mắt; còn với Antoine, sứ mệnh này lại là
một cuộc đào thoát khỏi mối tình vô vọng. Mỗi người trong số họ đều sống những
cuộc đời khác nhau, lâm vào những bế tắc khác nhau, nhưng tựu trung lại, Mặt Trăng
đều xuất hiện như một lối thoát, một con đường mới đầy tươi sáng.
Nhưng như cả ngàn năm nay cuộc đời đã luôn vận hành
như thế, những kẻ tiên phong luôn là những kẻ phải trả giá đắt. Mia, Midori và
Antoine là những thiếu niên đặc biệt, họ được trao cho cơ hội làm những thiếu
niên đầu tiên đặt chân lên Mặt Trăng, được nhìn thấy điều mà hàng tỉ người
không có cơ hội được thấy, được sống một cuộc đời mà chưa ai từng được sống… và
cả những hiểm nguy chưa ai tùng đối mặt. Chuyến đi lên Mặt Trăng sẽ là một trải
nghiệm để đời với từng người trong số họ, nhưng với điều kiện, họ có thể tìm
được đường về, như kẻ tiên phong kia cuối cùng cũng đến được với chân lý.
Đứng trên một Mặt Trăng hoang vu, bị đe doạ tính
mạng bởi những kẻ lạ mặt với sức mạnh siêu nhiên, những thiếu niên cam đảm ấy
sợ hãi nhất điều gì? Sợ hãi những kẻ ngoài kia, sợ hãi cái chết bất ngờ, hay sợ
hãi chính những con người trên Trái Đất, những kẻ đã biết trước mọi nguy hiểm
nhưng vẫn đẩy người ta vào chỗ chết, chỉ để kiểm chứng lại những học thuyết và
tham vọng điên rồ của mình? Đến phút cuối cùng, trước lằn ranh sinh tử, bị phản
bội, bị nuốt chửng bởi nỗi sợ hãi, thì thứ đáng sợ nhất có lẽ là hi vọng. Hi
vọng cho người ta động lực, nhưng hi vọng lại là thứ huỷ hoại người ta nhanh
nhất vì nó rất dễ sụp đổ, như cách Mia đã nghĩ. Cô không tin vào hi vọng, cô
tin vào bản thân mình, tin vào cuộc đấu tranh sinh tồn trong khu căn cứ hoang
tàn tĩnh lặng. Và niềm tin ấy đã giúp cô “gần như” chiến thắng. Có quan điểm xã hội học cho rằng, tin vào bản
thân mình cũng là một hình thức của sự sợ hãi và mất niềm tin, khi con người ta
không biết đặt niềm tin vào ai khác ngoài chính mình. Nhưng trong đa số các
trường hợp, niềm tin vào bản thân chính là cơ sở cho mọi niềm tin khác, và có
lẽ là thứ niềm tin còn lại sau cùng khi người ta lâm vào tuyệt vọng.
Có thể coi 172 giờ trên Mặt Trăng vừa giống
như cuốn nhật trình ghi lại quãng thời gian phi hành đoàn tàu Ceres thực hiện
sứ mệnh trở lại Mặt Trăng, lại vừa giống với một cuốn nhật ký lưu giữ lại từng
sự kiện, từng suy nghĩ của mỗi người trước và trong khi tham gia cuộc hành
trình ấy. Một cuốn nhật ký dở dang, và một cuốn nhật trình chết chóc.
Như Johan Harstad đã kể lại trong phần Lời tác giả,
trong quá trình tìm kiếm một sự sống khác ngoài không gian, một “đồng minh” để
thấy giống loài mình không cô độc, con người đã gửi ra ngoài vũ trụ hai cuốn
băng ghi lại những thông tin như cấu trúc sinh học, âm nhạc và nghệ thuật,
những thứ đủ để hiểu được về loài người và nền văn minh họ đã xây dựng nên.
Những cuốn băng ấy giống như một lời chào đón nhiệt thành gửi tới những người
bạn phương xa, nhưng đã bao giờ bạn đặt ra giả thuyết rằng, đó chính là lời mời
gọi cho một cuộc xâm lăng từ bên ngoài Trái Đất?
Điều không tưởng ấy là một mối đe doạ thực sự. Sau
hàng triệu năm tiến hoá, con người có lẽ đã mất đi sự cảnh giác bản năng, trở
nên kiêu ngạo, tự phong mình là những kẻ chinh phục. Chúng ta đã đánh mất đi sự
khiêm nhường trước những thế lực vượt ngoài tầm hiểu biết. Bi kịch bắt đầu từ
khoảnh khắc ấy. Vũ trụ vô cùng bao la, và con người chỉ là một dấu chấm nhỏ
nhoi dễ dàng bị xoá bỏ. Chúng ta không biết rõ về khoảng không gian vô tận ngoài
kia như chúng ta hằng tưởng, sự kiêu ngạo và vốn hiểu biết hữu hạn ấy, cuối
cùng sẽ dẫn dắt loài người đến bờ vực diệt vong, không chỉ trong cuốn tiểu
thuyết giả tưởng hơn 300 trang này, mà còn trong cả cuộc đời thực chúng ta đang
sống. “Tất cả các ngươi sẽ chết”, và chính con người đã tự đào hố chôn mình.
172 giờ
trên Mặt Trăng được ca ngợi bởi sự “hoài
cổ” khi xây dựng bối cảnh bằng chất liệu từ những bộ phim du hành vũ trụ những
năm 80. Sự hoài cổ ấy không chỉ đơn thuần là phông nền bối cảnh, nó còn là mô
hình xây dựng cao trào với mở đầu dài trong bình lặng, kịch tính tăng dần về nửa
cuối trước một cú chốt bùng nổ. Phần đầu truyện diễn ra khá chậm, phải mất tới
hơn một nửa cuốn sách, bạn đọc mới theo chân nhóm thiếu niên đến được Biển Yên
Bình nơi đặt căn cứ DARLAH 2 – một sự chuẩn bị tâm lý vừa đủ để bạn đọc trở nên
yêu quý các nhân vật, và sẵn sàng sát cánh bên họ trong cuộc phiêu lưu tưởng
tượng. Nhưng từ sau thời điểm ấy, tiết tấu
truyện trở nên dồn dập, nhanh chóng với những cú ngoặt bất ngờ - có thể
tưởng tượng giống như tốc độ một quả tên lửa rời bệ phóng khiến người đọc, đôi
khi là cả nhân vật, không có đủ thời gian để kinh hoàng.
Bên
cạnh một kết cấu truyện được xây dựng công phu, thì sự hoà trộn giữa các thể
loại cũng là một nét vô cùng đặc sắc. 172 giờ trên Mặt Trăng được sáng
tác trên hai thể loại chính là khoa học viễn tưởng và kinh dị, xen lẫn một chút
tâm lý tuổi mới lớn. Trong khi nửa đầu tác phẩm tập trung vào thể loại khoa học
viễn tưởng và tâm lý, kinh dị chỉ lướt qua trong một vài chi tiết nhỏ, đủ đề
người đọc giật mình thì trong nửa cuối, tác phẩm gần như là sự độc diễn của thể
loại kinh dị, mà trong đó, khoa học viễn tưởng chỉ là xúc tác để câu chuyện đạt
được sự ghê rợn cần thiết. Tất nhiên, tuy đáng sợ, nhưng cũng nhiều suy tưởng
và giàu cảm xúc yêu thương. Johan Harstad đã viết nên một câu chuyện lạ kì, mà
trong đó, anh xây dựng nên mỗi nhân vật với những câu chuyện đời khác nhau;
những câu chuyện mà khi chúng kết thúc, ta có thể không hiểu đến tận cùng,
nhưng đều tin vào tính chân thực của nó cũng như có được cho mình những lí do
để tha thứ cho họ dù đã phản bội, hay lừa dối ta.
Nếu như Jules Verne ở thế kỉ thứ 19, thời đại của
các mạng khoa học công nghệ, của cơ khí phát triển, của một kỉ nguyên khám phá
nhìn Mặt Trăng như một miền đất hứa, một môi trường hoàn toàn mới lạ để chinh
phục, thì ở thế kỉ 21 của công nghệ số, nhà văn người Na Uy Johan Harstad, hoà
chung vào dòng suy tưởng của những nhà văn đương đại, lại nhìn tinh cầu này bằng
một sự hoài nghi xen lẫn nỗi kinh sợ. Đây cũng là xu hướng mới trong sự phát
triển của dòng truyện khoa học viễn tưởng, khi mọi thứ đều trở nên cũ mòn, và
loài người dường như đang mất đi cái nhìn lạc quan vào cuộc sống quanh mình.
Phan
Hải Anh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét