Thứ Hai, 8 tháng 12, 2014

Ăn trưa một mình



Chắc chú Keanu Reeves cũng chỉ đến như mình là cùng =)). 

Dạo này thân thể phân làm hai nửa (đùa thôi), sáng một nơi, chiều một chốn. Hai nơi chốn đều ở tuốt luốt hai đầu của thành phố. Sáng đi Hoàng Cầu, chiều đi An Dương, trưa được nghỉ 90 phút thì dành gần 2/3 thời gian ấy cho việc di chuyển qua lại giữa hai nơi.

Nhớ hồi tháng mười đi làm ở Công ty truyền hình Viettel chỗ Trung Văn, ngày đi bằng 2/3 bây giờ, ăn ngủ nghỉ đầy đủ các thứ nhưng lúc nào trong đầu cũng ám ảnh cái quãng đường “xa vãi tè”, giờ lang thang cả ngày trên đường thì chẳng còn thấy thế nữa. Vì suốt ngày được một mình đi ngoài đường.

Mình là cái loại thích lủi thủi một mình, lang thang đi qua mấy cái phố nhiều cây xong nghĩ bâng quơ này kia.

Trước nay mình vẫn có một cái “break-place” – một từ tự chể của mình, ý kiểu cái nơi để trốn đến bất kì lúc nào mình cần nghỉ trưa để chiều đi đâu đấy. Nhưng từ lúc biết cô mình sắp đi lấy chồng, xong mình là người cuối cùng được cho biết về kế hoạch cuộc đời cô ý, thì tự dưng mình chẳng còn cảm giác được nơi ấy chào đón nữa. Lòng cứ thấy trống trống và đau đau. Suốt tuần đầu tiên của cái cuộc chạy việt dã điên khùng mà mình đang tham gia này, trưa nào mình cũng lang thang ăn cái này cái kia, đủ thứ vớ vẩn mà mình ao ước, gì thì túi cũng rủng rỉnh mà. Thế nhưng ngủ một giấc qua ngày chủ nhật, sáng thứ hai tỉnh dậy thì thấy chẳng muốn đến những chỗ đấy nữa. Thế là mình chẳng còn biết làm gì vào buổi trưa, ngoài một cái hộp Knor màu vàng vàng đựng cơm nguội từ bữa trước và bất kì thứ gì kiếm được trong tủ lạnh. Tất cả buộc trong tấm khăn Tenugui màu đỏ cam hình đàn cá koi cô bạn thân từ bé mua tặng. Không hẳn là mình hết tiền – mình hoàn toàn có thể xin bố mẹ, mình chỉ chán thôi. Chán tất cả mọi thứ trên cái cõi đời này.

Thế là hai ngày hôm nay, trưa nào mình cũng mò ra hồ Tây, ngồi đại ở một cái ghế đá nào đấy, xong mở hộp cơm ra ăn. Tiết kiệm được khoảng 30 phút không suy nghĩ, không chán nản này kia. Hôm đầu tiên lúc mình ngồi ăn thì có một con bé được mẹ nó đèo đi ngang qua, nó cứ nhìn mình chằm chằm kiểu kinh ngạc. Tự dưng mình lại nhớ đến hồi xưa mình cũng từng nhìn mấy cái người ngồi ăn một mình bằng ánh mắt như thế. Kiểu thương thương buồn buồn vì nghĩ họ hẳn cô đơn lắm, nhưng giờ đây, khi mình là người ngồi ăn trên cái ghế ấy, thì mình nhìn nhận nó như một thú vui của sự tận hưởng, dù nhìn thì hơi khổ khổ. 

Hôm nay bữa trưa của mình có thêm thành phần mới là dưa chuột bao tử. Mình thề là sẽ có một ngày nào đấy mình sẽ ăn hết cả một hũ dưa chuột bao tử cho đã cơn thèm, dù rằng như vậy hình như không tốt cho sức khoẻ lắm. Còn câu chuyện buổi trưa hôm nay, hũ dưa chuột làm mình tí thì khóc oang oang vì nó không mở ra được. Nhưng may là cái cơ thể thiếu nước trầm trọng của mình cũng không cần phải mất thêm ml nước nào qua đường mắt vì cuối cùng cái nắp lọ cũng bung ra, và mình đã ăn đến ba quả dưa chuột muối chua chua giòn giòn. Sau này có làm cái thống kê thực phẩm nào khiến bạn hạnh phúc, thì mình sẽ liệt kê dưa chuột bao tử vào top đầu.

Chuyện cuối cùng mình muốn kể trong cái bài lảm nhảm viết trong giờ nghỉ trưa này là khi mình ăn cơm xong và ngồi nhìn hồ Tây bằng cặp mắt húp híp vì gió tạt, mình chợt nghĩ là tương lai có khi nào mình sẽ là một trong những ông bà gia cứ lang thang cả ngày ngoài ghế đá công viên hay trên đường không, vì bây giờ mình cũng thấy mình lang thang và lẩm cẩm lắm rồi.

Thứ Sáu, 28 tháng 11, 2014

2014/11/28 - Cũng không hẳn là lịch sử, cơ mà cứ note lại thôi :P


Có lẽ mình sẽ review cuốn này vào một dịp nào đó, nhưng không phải bây chừ xD

Chuyện kể lại rằng vào năm mình học lớp 7 hay 8 gì đó, cái thời mà thế giới của mình chỉ thu gọn trong những bộ phim cháy nổ ì xèo trên VTC 3, báo Hoa học trò từ những năm 90 và kênh VOV 3, mình cũng có ôm mộng văn chương (bây giờ thì không chắc?) này nọ. Đỉnh cao của cả một quá trình bôi biết gạch xoá những ngày ấy là một tập bản thảo nhỏ nhỏ xinh xinh được chép tay rất nắn nót trên một xấp giấy xé ra từ vở. Tập bản thảo này có tên là Blue-eyes Baby - kiểu tên một loại hoa màu xanh xanh mà hồi đấy mình rất thích (mà thực ra cũng chưa bao giờ được chạm tay vào chúng nó, vì hình trên báo mà), được bỏ phong bì đề tên người gửi là ABC con bố mẹ XYZ (hồi đó đây là chuyện khá thịnh hành, ôi ngày xưa) đàng hoàng và theo dự định là sẽ được gửi cho Hoa học trò.

Không cần phải google đâu ạ, đây chính là cái hoa blue-eyes baby đấy!


Hồi đấy xóm bên cạnh (mà bây giờ phải gọi là tổ dân cư bên cạnh) có một cái nhà văn hoá, trước cửa nhà văn hoá là một cái thùng thư màu vàng cũ cũ. Mình đã phải lấy can đảm cả một tuần dài mới dám đến bỏ thư vào thùng. Mình vẫn nhớ đấy là một ngày sau cơn mưa rào, trời lành lạnh man mát. Mình nín thở đút thư vào hòm, chuẩn bị tinh thần là nếu hối hận sẽ rút ngay lại =)). Nhưng rồi mình cũng thả tay. Nhưng trái với tưởng tượng của mình, lá thơ không rớt đến "xạch" một cái khi chạm đáy thùng hoặc rơi đè lên những lá thư khác mà phát ra tiếng "tõm" rất khó hiểu.

Và đấy là bản thảo truyện "một đi không trở lại" đầu tiên của cuộc đời mình.

Sau cái "sự cố hòm thư" đấy, mình lại tỉ mẩn ngồi chép lại bản thảo truyện ngắn nọ, nhưng lần này không hiểu sao lại hết gấp đôi số giấy so với lần trước (oạch). Chợt nhớ đến một câu thơ dược dẫn lại trong bài cảm nhận Mộ đom đóm trên 4A.M: "Cánh thư mỏng xanh như tàu lá". Thư của mình lúc đấy chắc phải là tàu lá chuối. Lần này cẩn thận hơn, đã chọn bưu điện ở ngã tư Tân Xuân (giờ đã thành trụ sở chuyển phát nhanh và không nhận gửi thư nữa) cũng với cái thùng thư màu vàng. Thư của mình tí thì không lọt cái khe vì dày quá =)). Nhưng cuối cùng nó vẫn vừa, là tiếng "xạch" chứ không phải "tõm".

Và mình chẳng bao giờ nhận được hồi âm từ những lá thư ấy.

Ước gì mình được gửi một dạng thư xuyên thời gian hay gì đó đại loại thế đến con bé mình lúc đấy, để nó biết cuối cùng mình cũng được Hoa Học Trò trả lời, mà còn hoành tráng quá mức tưởng tượng. Chắc con bé mình lúc đấy sẽ vui lắm, sẽ hạnh phúc lắm, sẽ thấy ý nghĩa lắm. Con bé mình lúc đấy cần sự kiện này hơn mình, nhưng biết làm sao được, vì lúc đó nó đã tu luyện được như mình bây giờ đâu =)). Với mình bây giờ, sự kiện này vẫn khiến mình sướng đến bay cả lên được, nhưng niềm vui ấy không bền, và nó mang nhiều ý nghĩa về sự chứng tỏ bản thân hơn - gì thì trong cái sự nghiệp viết lách úi xùi của mình, thì đây là truyện ngắn đầu tiên được đăng, và cũng đồng thời là bài viết đầu tiên được in ra sách giấy! Ôi ôi ôi ôi ~ Sướng chết đi được ~ Á á á á á ~

Thôi, thực ra mình thích chết đi được. Á á á a a a a a a a ~
Mà như cái cách mình hay nói, một chút show-off cũng chẳng có hại gì (câu này dẫn lại từ anh Kỳ Nam).

"Em nó" đây! 


Sơ bộ thì mình vẫn chưa dám đọc lại vì... ngượng, cơ mà tổng thể thì nhìn trái nhìn phải xong nhìn mình thấy chẳng liên quan gì đến những truyện còn lại cả ;A;. Đại để Áo dài chính là ký ức kinh hoàng - đúng hơn là sự kiện vừa buồn cười vừa háo hức vừa sợ vừa hoang mang hồi đầu lớp 10 của mình. Tất cả sự kiện mà nhân vật gặp phải trong truyện đều là những chuyện mình gặp phải, trừ đoạn mình đã "đánh tráo" chiều cao và chiều rộng của nguyên mẫu để đưa vào nhân vật =)).

Cũng vẫn là tốn vải thôi, nhưng tốn kiểu khác =))

Anyway, mình viết post này để khoe các bạn, và những mong các bạn sẽ đi mua sách để đọc truyện của mọi người, luôn tiện thì đọc cả của mình xD.

Cà Cà

Thứ Sáu, 21 tháng 11, 2014

HỌC SINH CHÂN KINH: Câu chuyện phía bên kia dải ngân hà





“Học sinh chân kinh” là thứ gì đó to lớn hơn một thể loại “tạp phí lù” tất cả các thể loại: hài hước, triết lý, hành động, tâm lý… nhiều khi còn vượt cả kinh dị. Một câu chuyện vừa quen thuộc vừa “chả liên quan” sẽ mang lại cho bạn nhiều hơn là một sự giải trí triệt để.
Ở một cái trường cấp ba tên Khổ Qua được lãnh đạo bởi một thầy hiệu trưởng vô cùng đường bệ, đeo kính râm, mặc áo tứ thân và toàn nói những… cái đâu đâu nọ, có một cái lớp 10 Bê-ta với  một đàn đực rựa cùng đám con gái vừa xấu vừa dữ dằn. Lớp 10 Bê-ta được chủ nhiệm bởi thầy Nhân vừa nhân hậu vừa bao dung với tụi học trò đang tuổi ăn tuổi phá (ước gì tâm hồn thầy tìm được một ngoại hình tương xứng). Mở đầu cũ mèm, trường nào lớp nào chẳng thế. Nhưng khoan đã, bạn trẻ đừng vội nhầm. Vì đám 10 “Bê-tha” này, cả thầy Nhân cùng tất cả học sinh của cái trường Khổ Qua ấy toàn là người ngoài hành tinh cả đấy (tất nhiên tôi đang viết với điểm nhìn từ Trái Đất). Họ ở tuốt tận Xứ Bưởi, hành tinh Trái Chuối cơ. Mà Trái Chuối mới Trái Đất cách nhau non 10 tỉ năm ánh sáng chớ đùa. Nên tất cả chỉ là trùng hợp, trùng hợp thôi.
Một cái mở đầu tưởng chừng đã quá sáo mòn cho mọi câu chuyện bỗng trở thành Vô tiền khoáng hậu vì cú “twist” ngoạn mục ở phút cuối hé lộ cho bạn đọc nhiều hơn lời gợi ý chình ình trên bìa sách, rằng đây là bộ “Truyện tranh Việt Nam dành cho tuổi teen”.


Ban đầu, tôi cũng không có nhiều thiện cảm với những thể loại truyện tranh hài giống như “Học sinh chân kinh”, bởi tôi mong đợi một thứ gì đó ý nghĩa hơn việc các nhân vật cứ cười hềnh hệch rồi học được một bài học nhớ đời, rồi thôi, rồi lại cười hềnh hệch triền miên như một lũ vô sỉ không não. Nhưng rồi một luận điểm của anh Tuấn Trong Trắng (a.k.a Alex Tuấn trưởng nhóm B.R.O) tình cờ được nhắc đến: Đôi khi người ta cũng nên làm một số việc không cần dùng đến não.
Góc nhìn mới khiến tôi, rốt cuộc cũng đi đến chỗ một mặt cảm nhận hết được những cái hài hước bông phèng khùng dở mà đội ngũ tác giả đã dày công dàn dựng nên, một mặt nhận ra những ẩn ý thâm sâu trong từng câu chuyện. Việc các nhân vật qua đến 15 tập truyện vẫn cứ “u như kỹ” đâu có gì quan trọng, quan trọng là thái độ của người đọc cuốn truyện ấy đã thay đổi như thế nào. Chuyện hết, nhân vật thay đổi, ta yên tâm thở phào vứt “phạch” cuốn truyện sang một bên rồi ngồi rung đùi chờ tập tiếp theo, vẫn cứ sống bê tha như trước khi ta đọc truyện – nếu sự việc tiến triển theo hướng ấy, thì quả mồ hôi công sức của tác giả đã đổ sông đổ bể. Vậy thay vì tận hưởng cảm giác hài lòng trong tưởng tượng, ta hẳn nên thấy khó chịu nhức nhối trong tưởng tượng rồi thở phào vì mình hóa ra đã chữa được những cái cố tật đã làm mình ngứa mắt cứ được dễu đi dễu lại trong cuốn sách.
Cái sự “giác ngộ” gián tiếp này xem ra cũng ”chẳng liên quan” đến ý đồ của tác giả, vì cũng trong một câu chuyện lúc trà dư khác của nhóm B.R.O, anh Tuấn Trong Trắng đã nửa đùa nửa thật mà nói rằng vì người ta không cho anh sáng tác một câu chuyện “hoàn toàn không mang tính giáo dục”, mà anh đã phải nhào nặn nó thành “truyện tranh mang tính giáo dục (hơi) cao”. Trong cái rủi có cái xui, có lẽ nhờ vậy mà chúng ta mới có một “Học sinh chân kinh” ngày hôm nay.



Một trong những thành công của “Học sinh chân kinh”, chính là những chuyện nửa đùa nửa thật, nửa thực nửa hư của xứ Trái Đất được “tịnh tiến” tuốt qua xứ Trái Bưởi. Nào thì là chuyện thi nữ sinh, lộ hàng, báo mạng giật tít, chuyện nói xấu, ném đá giấu tay, xe máy bốc cháy, giá cả leo thang, bạo lực học đường, trẻ em bỏ nhà đi bụi, lối sống chuộng vật chất… Thế mới biết, dù là bên này hay bên kia dải ngân hà, dù là Trái Đất hay Trái Chuối, dù là Xứ Bưởi hay xứ dừa, thì cuộc sống vẫn là một chuỗi những biến số đảo điên muôn màu, đẹp đẽ trộn lẫn cùng xấu xí, sự nhân hậu đôi khi bị chôn sâu dưới ba tầng ích kỉ nhỏ nhen… Tất nhiên, “Học sinh chân kinh” có cách thể hiện vấn đề “nhạy cảm” ấy hết sức khéo léo, để bạn dù vui vẻ tận hưởng sự hư cấu và cường điệu, cũng hoàn toàn không thể tin rằng nó không có thật.
Bên cạnh những sự kiện được phản chiếu qua một tấm gương cười hài hước, “Học sinh chân kinh” còn sở hữu một đội ngũ nhân vật muôn hình muôn sắc, với đầy đủ những thói tật của đám học trò quỷ ma cũng phải vái hàng.
Đó là một “nhúm” những nhân vật mà ở lớp học nào cũng có, mà xa xôi cách trở hơn nữa, là ở cộng đồng nào cũng có: thằng Thường trong đầu chẳng có nợ gì nhưng lại đẹp trai, thằng Chí thì vẻ đẹp trai bị che lấp dưới mười tấn ghét nhưng trong đầu thì cái gì cũng có. Lại có một thằng Gia Phú Tiêu Sang không biết làm gì ngoài tiêu tiền trong khi cô bé lớp trưởng Hà Mã xấu đui lại phải ngày ngày kiếm tiền thay cha mẹ nuôi em, có một Như Ngang lùn xủn mưu mô suốt ngày chải chuốt trong khi có một Minh Tuệ vàng hoe ngây thơ vô số tội… Một dàn nhân vật ồn ào như vỡ chợ, vừa mưu mô vừa vụng về, vừa ra dáng người lớn lại vừa giống một đám mèo con chưa dứt sữa mẹ…

Mỗi đứa một sắc màu, một cá tính, một câu chuyện riêng. Lắm tài nhiều tật. Chúng có ước mơ, hoài bão, sẵn sàng bị tổn thương, bị bẽ mặt, nhưng nhất quyết không chịu lùi bước. Chúng hội tụ đủ thứ tật xấu trên đời, suốt ngày chí chóe với nhau, nhưng chúng vẫn biết sát cánh bên nhau khi khó khăn ập đến. Những đứa trẻ điên khùng  mà ta không thể yêu nhưng cũng chẳng thể ghét. Quãng đời trung học của bất kì ai, cũng sẽ trở nên vô cùng khó quên khi có những đứa bạn như chúng ở bên cạnh. Đó là điều khiến “Học sinh chân kinh” trở nên giàu cảm xúc. Nó nhắc nhở người ta luôn phải nhớ đến và trân trọng cái quãng thời gian Ăn chưa no, lo chưa tới lấp lánh đầy sắc màu ấy.
Dù ở bên này, hay bên kia dải ngân hà, thì cuộc sống vẫn phải tiếp tục. Dù có bị chà đạp, dù có dở khóc dở cười, thì chỉ cần ngẩng cao đầu đứng lên sau mỗi lần vấp ngã, thì ta vẫn là người chiến thắng. Đó chính là cách mà “Học sinh chân kinh” đã diễn ra, cũng tình cờ là câu chuyện đời của chính những họa sĩ đã chắp bút vẽ nên câu chuyện đầy ắp tiếng cười và nước mắt (có thể hiểu là Cười chảy nước mắt) này. Một câu chuyện đáng ghét, nhưng không thể không yêu.

STRONG ICARUS

Thứ Ba, 28 tháng 10, 2014

Kindaichi Neo: Tương lai nào cho series live-action kinh điển?

 Nếu bạn hỏi tôi bộ live-action trinh thám yêu thích nhất của tôi là gì, tôi sẽ không ngại ngần mà trả lời luôn: Đó là Kindaichi Shounen no Jinkenbo


Bắt đầu lên sóng từ năm 1995, được chuyển thể từ bộ manga cùng tên của bộ đôi tác giả Kanari Yozaburo và Satou Fumiya, series live-action của Kindaichi Shounen no Jinkenbo đã bước sang năm thứ 19 với 4 mùa phim, 3 SP Drama và bốn chàng Kindaichi qua diễn xuất của bốn nam diễn viên khác nhau.

Để nói gì đó về series này, thì bản thân mình, dưới góc độ của một fan hâm mộ, vô cùng yêu thích hai mùa đầu với diễn xuất của Domoto Tsuyushi trong vai Kindaichi. Tuy được làm vào những năm giữa của thập niên 90, khi mà kĩ xảo điện ảnh còn dừng lại ở việc tạo khói, đánh sáng xanh đỏ nhưng có lẽ vì nó là phần đầu tiên, nên lúc nào cảm xúc của nó cũng là mạnh nhất. Hai mùa phim này có lẽ là các phần bám sát nguyên tác nhất (và cũng lập kỉ lục về số hung thủ chết ở cuối phim), và nhạc phim hay nhất. Phần nhạc phim của hai mùa này đã trở thành thương hiệu và sử dụng cho hầu hết các phần sau đó.

Sang mùa thứ ba của series, Domoto "bỏ cuộc chơi", dàn cast được thay đổi lại toàn bộ với vai chính thuộc về Matsumoto Jun của nhóm Arashi. Jun tiếp tục với Kindaichi thêm một mùa nữa, và đây cũng là mùa drama cuối cùng của Kindaichi trước khi nó được làm dưới dạng SP Drama và chỉ quay trở lại hình thức truyền hình dài tập vào năm 2014.

Sau Jun, vai Kindaichi được tiếp tục đảm nhận bởi Kamenashi Kazuya của nhóm KAT-TUN. Nam ca sĩ tham gia vào tập SP Drama sản xuất năm 2005. Kazuya đã đưa series Kindaichi lao xuống vực khi trong suốt 8 năm sau đó (2005-2013) không có thêm bất kì một phiên bản điện ảnh hay truyền hình nào của phim ra mắt khán giả.

Tới tháng một năm 2013, dự án Kindaichi được khởi động lại bằng một SP Drama với bối cảnh chính diễn ra tại Cửu Long, Trung Quốc. SP Drama này và SP Drama thứ hai ra mắt vào tháng một năm 2014 được tung ra như một quả bóng thăm dò: một mặt đánh giá sự quan tâm của lớp khán giả mới (theo tôi nghĩ 8 năm là khoảng thời gian vừa đủ để tạo ra một lớp khán giả truyền hình mới), mặt khác là sự dọn đường cho kế hoạch tiếp theo.

Hai tập phim đặc biệt này được đầu tư rất công phu về cả mặt nội dung và hình ảnh. Nội dung của phim tiếp tục được xây dựng dựa trên cốt truyện phần II của manga, vì thế có lẽ không cần bàn cãi nhiều về tính hấp dẫn của nó. Phần hình ảnh với những kĩ xảo được đầu tư kĩ càng hơn, mà một dàn diễn viên "ngàn sao" quy tụ tất cả những nghệ sĩ giải trí  đình đám nhất ba quốc gia Nhật - Hàn - Trung: Ngô Tôn, Từ Nhược Tuyên, Tăng Chí Vĩ, Seungri (SP 2013), Nickhun (SP 2014), Narimiya Hirouki... Đặc biệt vai diễn chàng thám tử Hajime Kindaichi được giao cho Yamamoto Rysuke - chàng ca sĩ 21 tuổi của nhóm nhạc Hey! Sey! JUMP (Ôi, giai Kim Ngưu :3) và vai cô bạn đồng hành Miyuki được giao cho ngôi sao nữ đang lên Kawaguchi Haruna. Xét trên một góc độ nào đó, hai SP Drama này giống như một dạng phim quảng cáo trá hình: quảng cáo du lịch và thúc đẩy giao lưu văn hoá giữa ba quốc gia suốt ngày chí choé nhau trong khu vực Đông Á.

Sau sự dọn đường đình đám này, vào tháng bảy năm 2014, mùa phim truyền hình thứ tư của series này chính thức ra mắt. Mùa phim thứ tư này đánh dấu sự khác biệt của nó với những mùa phim trước bằng việc... thêm một chữ "N" vào sau tên phim: Kindaichi Shounen no Jikenbo N(neo) - Những vụ án mới của thám tử thiếu niên Kindaichi. Tất nhiên sự thay đổi về tên gọi này cũng dẫn đến những thay đổi về kết cấu và nội dung phim.

Tôi khá tự hào về việc mình là người theo dõi bộ live-action này qua từng mùa của nó (tất nhiên cho phép tôi loại trừ SP năm 2005 với diễn xuất của Kamenashi - diễn viên theo tôi không liên quan đến Kindaichi nhất từng tham gia bộ phim), phải nhận xét rằng, sau 9 tập phim, mùa phim này là mùa phim đáng thất vọng nhất.

Điểm bất thường đầu tiên ở series mới này, đó chính là độ dài - ngắn bất thường của các tập. Tập mở đầu dài 90 phút trong khi các tập còn lại chỉ có độ dài bằng một nửa. Ban đầu tôi đã nghĩ lí do chính của việc này là bởi tập đầu tiên bao giờ cũng dài. Nhưng sau khi xâu chuỗi các tập lại với nhau, thì có lẽ kế hoạch ban đầu của đội ngũ sản xuất là biến mùa phim này thành một mùa phim 4 tập với thời lượng 90 phút/tập (điều này có giống với series SHERLOCK của BBC không?) nhưng kế hoạch này đã đổ bể từ trong trứng nước. Điều này có thể nhận thấy rõ nhất ở tập 2, khi người xem nhanh chóng nhận ra tập phim này là một sự pha trộn sống sượng giữa motif thường thấy của Kindaichi với series phim Halloween kinh điển SAW. Và nội dung phim ư? Như thể nó đã bị cắt mất 60 phút ở giữa. Tình tiết phim thiếu thuyết phục, còn nhiều nút thắt chưa được mở, và động cơ gây án chẳng có một tẹo liên quan nào đến nội dung phim.

Cũng từ điểm bất thường đầu tiên bên trên, xin dẫn tới điều thứ hai, đó là mùa phim này cũng đánh dấu sự xuất hiện của tập phim dở nhất lịch sử 19 năm của series.

Một điều đáng buồn nữa trong cả mùa phim 2014, là sự không đều tay giữa các tập. Dẫu cho sự điều chỉnh thời lượng phim đã được cân bằng lại khi phim bước sang tập thứ tư, nhưng có một điều rất dễ dàng nhận ra là chất lượng "trồi sụt" giữa các tập phim. Một số tập được làm rất tốt, gần như bắt kịp được với không khí ba mùa phim trước trong khi một số tập khác lại hời hợt và ít thuyết phục dưới mức mong đợi. Tập phim đôi kết thúc mùa phim này cũng chưa ở vào cái cao trào đáng lí ra nó nên có.

Điểm cộng duy nhất nên dành cho mùa phim này có lẽ nên dành cho Yamaoto Ryusuke và Narimiya Hiroki. Yamamoto dường như là người có ngoại hình tương đồng nhất với nguyên mẫu Kindaichi trong số các diễn viên từng đảm nhận vai diễn này. Một điểm thuyết phục khác, là cậu đã thể hiện được cái gọi là "góc tối" trong con người Kindaichi - nơi luôn bị giằng xé giữa đúng và sai, thiện và ác, cái nên làm và cái phải làm, thêm cả một chút của sự cay đắng xót xa. Tất nhiên trong các phiên bản trước, mỗi chàng Kindaichi cũng đều có những góc tối, nhưng ở Ryusuke, nó đã được đẩy lên đỉnh điểm.

Narimiya Hiroki trong phim này vào vai Takato - kẻ điều khiển rối và cũng là đối thủ lớn nhất của Kindaichi. Narimiya đã qua cái thời kì lấy thiện cảm của khán giả bằng nụ cười mèo dễ thương của mình. Anh vào vai một kẻ sát nhân máu lạnh, và anh đã thể hiện nó với tất cả những gì tốt nhất. Anh vẫn cười, nhưng là điệu cười thách thức đầy kiêu ngạo. Ngắm chàng Narimiya nổi loạn của Gokusen, rồi anh Takumi thẹn thùng của Ima, ai ni yukimasu, anh bác sĩ Hanamichi với bao toan tính của Juui Dolittle... giờ là Takato của Kindaichi, mới thấy Narimiya đã trưởng thành như thế nào.

Tất nhiên vì thế nên lúc xem phim cũng khá mệt.

Mùa phim thứ tư của Kindaichi Shounen no Jinkenbo đã khép lại sau 9 tập với rất nhiều những ê chề và một số điểm sáng bất ngờ (như mối quan hệ giữa Kindaichi và Miyuki đã có bước tiến mới sau mấy chục năm học cùng phổ thông =))). Rating của bộ phim cũng không thể nói là cao (theo trang Dramawiki, rating 4 tập đầu của mùa phim này dừng lại ở con số trung bình là 10%, với tập cao nhất cũng là tập đầu tiên - 12%) trong khi điểm chấm trên IMDb của phim là 7.7/10.

Có rất nhiều ý kiến trên các diễn đàn điện ảnh về bộ phim này. Điều đáng nói là, những ý kiến ủng hộ bộ phim dường như đến từ hai nhóm khán giả chính: hoặc những người yêu thích bộ truyện và hành trình 19 năm của bộ phim, hoặc fan hâm mộ các diễn viên tham gia, hoặc yêu thích cả hai. Nhưng rõ ràng bộ phim bản thân nó không thể sống được nếu chỉ dựa vào hai nhóm khán giả này. Liệu đây có phải là kết thúc tất yếu của một series phim "kéo dài qua hai thế kỉ"? Có phải nó đã quá cũ kĩ trong một thời đại mà tất cả chứng cứ đều được gửi đến phòng giám định pháp y và khán giả đã chán ngán câu "hung thủ là một trong số chúng ta"? Có lẽ còn quá sớm để trả lời câu hỏi này, cũng như đưa ra một dự đoán chắc chắn cho tương lai của cả series phim. Nhưng những gì chúng ta đang thấy là vô vàn, vô vàn những khó khăn cần phải vượt qua.

Năm 2015, series Kindaichi Shounen no Jinkenbo sẽ tròn 20 tuổi. Những điều bất ngờ hãy còn ở phía trước, cũng như những bí ẩn mà Kindaichi cần phải giải quyết "Nhân danh ông nội" mình. Và chẳng mất gì khi chúng ta tiếp tục đặt hi vọng vào một series mà mình yêu thích.


STRONG ICARUS

Thứ Bảy, 27 tháng 9, 2014

"A" - Sắc xanh tĩnh lặng (2)

3
Sau khi băng qua cánh đồng dương xỉ vẫn còn ướt đẫm sương, tôi tiến vào khu rừng đã hiện ra trước mắt. Khác với rừng trên ngọn núi có ngôi nhà của tôi – bao phủ bởi những cái cây to với bộ rễ kềnh càng chở trên mình hàng đống dây leo nhằng nhịt, loại cây chiếm ưu thế ở đây lại là thông và họ hàng của nó. Thẳng tắp, và toả ra mùi tinh dầu nhè nhẹ. Không khí ở đây có vẻ loãng hơn phía bên kia của thung lũng.
Tôi bắt đầu thấy khó thở, rồi chóng mặt. Những mảnh cuối cùng của bữa sáng trong dạ dày tôi chỉ trực trào ngược ra ngoài. Da tay và mặt tôi bắt đầu nóng lên và ngứa kinh khủng. Tôi loạng choạng ngã xuống một gốc cây gần đó. Chỉ đến lúc này tôi mới nhận ra không chỉ tay, mặt mà cả quần áo tôi đều bám đầy một thứ lông màu vàng nhạt. Thứ lông này cũng lơ lửng khá nhiều trong không khí. Tôi đã quá hấp tấp và bị tấn công. Vội vã đứng lên khỏi gốc cây, rũ sạch đám lông khỏi người, tôi kinh hãi nhận ra xung quanh chỗ mình vừa ngồi la liệt những con sâu lông béo múp phủ đầy thứ lông màu vàng nhạt kia. Mỗi khi vô tình chạm phải chúng, những sợi lông lại bung ra tự vệ.
SÂU RÓM. CHẾT TIỆT.
Tôi vội vã tháo chạy khỏi khu rừng, đầu hoa lên vì thiếu ô xi, và vì cơn ngứa kinh hoàng. Nháo nhào, tôi ngã vào đám dương xỉ và lăn tròn.
                                                                    ...

Sau cuộc tháo chạy khỏi đám sâu lông lá trong rừng thông, tôi mất trọn một tuần để chuẩn bị cho cuộc thám hiểm tiếp theo. Một tuần, trong đó phân nửa thời gian là để những vết sưng phồng xẹp xuống và cơn ngứa dứt hẳn. Liệu pháp chữa trị duy nhất tôi có được là những búi rong màu xanh thẫm ướt nhớp nháp vớt được từ dưới lòng suối-sông, một nhánh nước trong chảy ra từ khe núi mà tôi hay hứng nước. Đám thuỷ sinh có mùi không mấy thân thiện, nhưng tác dụng làm mát và giảm sưng của chúng thì thật đáng kinh ngạc.
Thời gian còn lại trong số những ngày chuẩn bị ấy, tôi dành cả ở thư viện “của tôi”. Vượt sông, chạy trốn đám sấu-sói lẩn trốn giữa những bụi cỏ, đôi lúc, không còn lựa chọn nào khác, tôi đành phải vung rìu chém chúng. Chiếc rìu với lưỡi cùn mẻ gây ra những vết thương vô cùng kinh dị. Điều này làm tôi nghĩ đến việc mình cần tìm một cuốn sách nào đó nói về cách làm sắc lại lưỡi rìu.
Thư viện là một khu nhà, mà so với tất cả những tàn tích tôi từng nhìn thấy, hoàn toàn nguyên vẹn. Những khối nhà được nối với nhau bằng những đoạn hành lang dày cỏ, có lẽ đã từng được sơn trắng. Một vài ô cửa sổ bị vỡ, nhưng không vì thế mà những cuốn sách bên trong nó bị ảnh hưởng. Tôi thường chui qua một cửa thông gió ở bên hông nhà, đột nhập vào kho lưu trữ, một toà nhà nằm tách biệt với khu tổ hợp kể trên. Một phần mái kho lưu trữ bị sụp xuống bởi ngọn của cái cây cổ thụ gần đó. Cái cây đổ nghiêng, tựa hẳn vào ngôi nhà tội nghiệp. Cái cây vẫn tiếp tục lớn, còn ngôi nhà vẫn oằn mình chờ đợi cái kết sau cùng của nó. Cá nhân tôi thì mong cái ngày ngôi nhà sập xuống sẽ không bao giờ xảy đến, vì bên trong nó là cả một thế giới mà tôi vẫn đang cố gắng tìm hiểu.
Bên trong nhà, không khí khá ẩm. Mùi mốc xộc lên từ những góc nhà đọng nước. Đây đó, khắp trong ngôi nhà này, những cuốn sách đang dần mục rữa. Vào mùa mưa, khi cơn lũ làm tôi không thể ở yên ổn trong ngôi nhà trên sườn núi, thì thư viện này chính là mái nhà yên ấm của tôi. Cũng trong thời gian ấy, bị giam lỏng trong ngôi nhà to lớn, bên ngoài là cơn mưa xối xả, dòng sông nước xiết chỉ chực cuốn trôi tất cả mọi thứ vô tình rơi xuống nó, tôi đã đọc kha khá sách trong thư viện này. Cũng chính trong thời gian này, tôi bắt tay vào di chuyển sách từ những kho đã bị nước làm ẩm đến một nơi theo tôi nghĩ là khô ráo hơn – chính là gian phòng trên mái nhà, cho đến khi cái cây đổ phá tan công sức của tôi, hoàn toàn.
Bây giờ đang là mùa khô – theo nghĩa là nhiều tuần liền không có mưa, chứ không phải kiểu thời tiết thường được mô tả trong sách. Nhiệt độ ở đây hầu như không thay đổi, chỉ đều đặn vận hành từ sáng sang tối, từ đêm sang ngày. Giống như tôi và hành tinh đang giam giữ tôi chỉ đơn thuần đi trên một cái vòng tròn hoàn hảo mà tâm của nó chính là mặt trời. Tôi cũng chưa bao giờ thực sự nhìn thấy mặt trời, nó chỉ là một vầng sáng mờ ảo màu vàng chanh trên nền trời dày đặc mây mù màu xam xám. Cũng tương tự như mặt trời, tôi chưa bao giờ nhìn thấy mặt trăng và những vì sao. Mặt trăng, đúng hơn là những gì còn lại của nó trên bầu trời, chỉ là một dải sáng bạc lấp lánh. Nhưng dường như đó cũng là câu chuyện của hàng chục năm về trước. Người ta đã cho nổ tung mặt trăng để ngăn chặn một hiểm hoạ nào đó. Nhưng dù gì đi nữa, với tôi bây giờ, câu chuyện lịch sử ấy cũng không còn quá quan trọng.
Trong ngày đầu tiên ở thư viện, tôi tìm được rất nhiều sách viết về những cây thông. Phần lớn chúng chỉ ra rằng loại cây này mọc nhiều ở một vùng gọi là “ôn đới”. Tôi đào sâu hơn trong các tư liệu để tìm hiểu về loài sâu lông lá sống kí sinh trên thân loại cây ấy. Một loài gây hại. Cách phòng trừ hiệu quả nhất là phun thuốc. Tôi không có thuốc.
Sau cây thông và loài sâu gây hại, cụm từ “ôn đới” làm tôi bị ấn tượng. Tôi bắt đầu đọc về các đới khí hậu. Tiếc thay tôi sẽ mãi mãi không còn cơ hội để chứng kiến chúng: những ngày mùa xuân mưa bụi ấm áp, những ngày mùa hè nóng nực, mùa thu mát mẻ và mùa đông giá buốt. Chúng tôi – tôi và tinh cầu này đã đánh mất điều ấy mãi mãi.
Sau hai ngày ở thư viện với những chồng sách về địa lý tự nhiên, tôi cuối cùng cũng nhớ ra những ghi chép của Zerphy. Sự nhớ ra ấy kéo theo một cơn tò mò kinh khủng. Tôi tưởng tượng ra cái kén, màu trắng ngà, chờ đón tôi giữa khoảng rừng màu xanh thẫm. Cái kén có lẽ sẽ là câu trả lời cho mọi thắc mắc của tôi về Z.

Đêm hôm ấy, bên ngọn lửa nhóm vội từ những thứ cây cành lấy được trong khuôn viên thư viện, tôi nhấm nháp nốt những quả đào cuối cùng còn lại trong túi, tay lần giở từng trang giấy nhăn nhúm với nét bút mảnh những rõ nét của người tên Zerphy. 

Thứ Sáu, 19 tháng 9, 2014

THE MAZE RUNNER: “Anh hùng thời loạn phim”



Nói về “Giải mã mê cung”, thì đầu tiên, có lẽ nên nhắc đến một cái vấn đề muôn thuở trong các bộ phim chuyển thể, một khi bạn đã trót gắn bó với nguyên tác của nó. Đó chính là sự so sánh giữa hai tác phẩm.

Tấ nhiên, công bằng mà nói, bộ phim dù hay hay dở, thì vẫn thuộc sở hữu của đạo diễn, là cái nhìn của đạo diễn, còn cuốn sách mới thuộc sở hữu của nhà văn. Một độc giả/khán giả lí tưởng có lẽ là người phân tách rạch ròi được hai điều ấy. Nhưng rõ khỉ, mình thì không phải một khán giả hay độc giả lí tưởng lắm, nên mình vẫn cứ ngồi xem, xong thỉnh thoảng lại so sánh này kia (tất nhiên là trong tiềm thức). Bài bình luận này cũng nhằm chỉ ra những cái khác biệt (cũng có thể là được/mất) giữa phim và sách, theo một cách mà mình nghĩ sẽ ít ảnh hưởng tới quyết định yêu ghét bộ phim của các bạn nhất.

Đầu tiên, ta cứ nói đến cái được trước đã nhỉ? Tuy phim và sách mở đầu tại cùng một thời điểm – khi Thomas tỉnh dậy trong thang máy, nhưng sau khoảnh khắc ấy, mỗi tác phẩm lại tiến theo một hướng, không hẳn là khác nhau, nhưng giống như bản sao của nhau ở hai thế giới.

Phần mở đầu phim khá (nói thế nào nhỉ, “nhão” – hình như đây là cái từ bạn mình dùng) chậm, và tươi sáng, giống như đi vòng quanh vấn đề chứ không lao thẳng vào nó như trong tiểu thuyết. Cái cách vào đầu vấn đề này khiến cho những người đã từng đọc qua cuốn tiểu thuyết có cơ hội được thấy một Trảng hoàn toàn khác, đúng chất bữa tiệc của những thằng đực rựa tuổi mới lớn ở chung với nhau với những trò phô trương sức mạnh, nhảy múa say xỉn…

Rồi cả cái cách Teresa “xử đẹp” lũ Trảng viên to đầu sau khi cô bé thức dậy cũng làm mình bật cười mà thốt lên “Ôi dễ thương quá” (xong hai lão đàn ông đi cùng làu bàu “Dễ thương cái gì?”). Nghĩ xem, khi bạn đã biết Teresa, biết được cả số mệnh của cô ấy, thì một đoạn phim ngắn ngủi ấy thôi, khi cô ấy cư xử như một cô nhóc thực thụ, còn đám Chảo Chiên, Gally, Newt rồi cả Chuck lấy chảo, khiên, nắp thùng… mạnh ai nấy đỡ cơn mưa “củ đậu bay”, không phải quá tươi đẹp sao? Nhìn khung cảnh ấy, liệu ai nghĩ những đứa trẻ ấy sẽ chết ngay trong ngày mai, hoặc một ngày kia nào đấy.

Mình khá bất ngờ về đoạn “làm thêm” này của đạo diễn Wes Ball. Tuy vì nó mà rất nhiều thứ bị lược bỏ ở đoạn sau, khiến cho kết cấu của câu chuyện không thực sự vững chắc như nguyên tác, nhưng mình vẫn thấy nó đáng giá vô cùng. Những sự kiện ấy giống như một món quà nho nhỏ mà đạo diễn dường như muốn dành tặng cho những người đã đọc cuốn sách, những người đã theo chân nhóm bạn đến giờ phút cuối cùng, một cơ hội nữa để chia sẻ những tháng ngày yên bình sẽ mãi mãi bị tước đoạt khỏi những nhân vật mà họ yêu quý.

Không chỉ tình tiết phim được thay đổi, các nhân vật trong phim dường như cũng là những bản sao rất khác của chính mình.  Minho xuất hiện trong phim như một người đẹp u sầu (và cả phim lúc nào cũng thế. Mình mong cậu ta phun ra cái câu “You are the shuckiest shuck-faced shuck that ever was” đã thành thương hiệu, mà rốt cuộc cậu ta chỉ nó có mỗi một lần). Kihong Lee có tất cả mọi thứ của Minho, từ cái vẻ ngoài lém lỉnh lúc nào cũng như chuẩn bị nói một câu gì đó ngỗ ngược cho tới tính cách năng động hoạt bát. Nhưng trong bộ phim này, Minho không phải là thằng nhóc Minho nóng nảy miệng chuyên nói mấy câu chọc điên người khác nữa, nó trầm tĩnh, ít nói và thích quan sát những điều xảy ra xung quanh mình. Nó là thằng Minho của “Lối thoát tử thần” chứ không giống thằng Minho ở Trảng. Điều duy nhất giúp mình nhận ra hai thằng Minho ấy là một, chính là sự bộc trực, sẵn sàng dấn thân vào nguy hiểm của nó. Và KiHong Lee đã nắm bắt và truyền tải được con người ấy trên màn ảnh. Cũng chẳng ngoa lắm khi anh Phan Xine nhắc đến cậu như một điểm sáng của toàn bộ phim.

Newt (ôi nhắc đến tên anh là lòng em lại xao xuyến) vẫn là chất keo kết dính, vẫn là cậu thiếu niên dịu dàng luôn hoá giải mọi mâu thuẫn, lắng nghe và chia sẻ với những người xung quanh mình. Chắc đạo diễn chẳng thừa hơi mà nhắc đến cú ngã của Newt, nên trong bộ phim này, cậu có đôi chân lành lặn. Thomas Brodie-Sangster khiến mình dường như không thể rời mắt khỏi Newt, bởi từ thần thái của cậu toả ra một sự ân cần, sự ân cần làm nên nhân vật của cậu. (Mà có lẽ tại mình bị hoa mắt bởi truyện nên xem phim bị quáng gà)

Bên cạnh những phần “bổ sung” không hề có trong mạch truyện làm người xem thích thú, “Giải mã mê cung” còn tạo ra cho mình một không gian cảm xúc rất khác biệt. Nét khác biệt đầu tiên trong bản danh sách rất dài chính là việc ai cũng có cơ hội được làm anh hùng. Chính điều ấy đã giảm bớt cảm giác trách nhiệm đè lên vai cậu bé Thomas, cũng như chia đều tình cảm của người xem dành cho các nhân vật trong phim. Tiếp theo đó là việc làm nhẹ đi những chi tiết cực đoan để hợp với khán giả trẻ tuổi, nhưng cũng đồng thời khiến những người từng là độc giả bớt đau lòng… (thiệt muốn kể ra đây luôn, nhưng kiểu gì cũng thành spoil) có lẽ đây chưa phải là lúc thích hợp để kể lại, nhưng mình có thể nhắn nhủ rằng, khác biệt lớn nhất về mặt cảm xúc đến từ cái twist cuối phim. Thay đổi ấy làm mình nghĩ cái kết cục sau cùng chắc sẽ còn làm khán giả từng đọc sách té lăn cù.

Một điều thú vị nữa, mà mình đã thốt lên lúc xem phim (nhắc lại lần nữa, TRONG ĐẦU), đó là “Phim còn khùng hơn truyện”. Đó là những cảnh rượt đuổi, chạy trốn trong phim. Khi đọc những câu chữ được viết ra trong sách, mình đã thấy nó quá gay cấn, quá kịch tính thì lên phim, cảm xúc ấy được nhân lên gấp mười lần. Mọi thứ đều bất ngờ, dồn dập, chớp nhoáng… giữa âm thanh rin rít của tụi Nhím Sầu và những vận động của mê cung là những Tầm đạo sinh bé nhỏ đang cố sức chạy thoát thân. Cái câu “Run for your life” đưa vào đây thích hợp hơn bất cứ tag line của bất cứ trò chơi nào.

Một cái nữa, dù nhỏ nhỏ xinh xinh thôi nhưng cũng nên được nhắc đến, đó là việc đạo diễn và đội ngũ của mình đã “cơ khí hoá” một cách triệt để mê cung, biến nó thành một thứ pha trộn giữa khu công nghiệp bị bỏ hoang với một trạm nghiên cứu không gian của những năm 70. Điều này không hẳn là hay, nhưng phần nào lại logic hơn với phần sau của cả phim và sách, nhưng lại thiếu logic với phần cuối cùng (xin lỗi vì đã spoil). Cũng nên nói luôn, là chính vì những thay đổi ấy, mà phần “giải mã mê cung” theo đúng nghĩa đen rất hay trong sách lại trở nên quá đơn giản, khiến cho thử nghiệm trở thành một thứ gì đó rất “bông phèng”, và W.I.C.K.E.D (rất muốn dùng cụm từ VSAT trong truyện) dường như bị động trước cuộc đào tẩu này. Nhưng đạo diễn vẫn có cách giữ lại vai trò của cậu bé Chuck, một cách thật tự nhiên.

Nãy giờ lan man nói rất nhiều về những cái được, giờ bàn đến cái mất.

Cái mất đầu tiên (và có lẽ cũng là to nhất) chính là cách thức giải mã mê cung đã nói đến bên trên. Thứ tưởng như là phương thức quan trọng nhất để mở ra nút thắt buộc chặt tất cả mọi thứ bí mật, thứ mà các Trảng viên liều mình tìm kiếm, hoá ra lại chỉ là thứ họ đã biết từ cả tỉ năm trước nhưng rồi lại cho rằng nó vô dụng.

Điều tiếp theo, chính là sự cắt bỏ, sắp xếp các tình tiết trong truyện vào phim cũng làm mình khá “đau tim”. Mình không phản đối chúng, vì rõ ràng nếu bê nguyên xi chúng vào, thì những người đã đọc sách như mình sẽ chẳng còn gì để chờ đợi, nhưng “đánh rơi” nhiều thứ như này cũng dễ khiến người ta… đau tim. Mối quan hệ giữa Teresa và Thomas cũng rơi vào hoàn cảnh tương tự như huyết thanh nhím sầu hay việc chấp nhận hi sinh để tìm lại quá khứ của Thomas. Vô tình vì bị lược bỏ một số “mối nối” mà nó trở nên yếu ớt, không có sức ảnh hưởng mạnh như nó cần phải có.   

Tuy có nhiều những được mất như mình đã điểm lại trong bài bình luận dài dằng dặc như trên, thì có những điểm cộng sáng giá cho bộ phim này, mà bạn không nhất thiết phải đọc sách rồi mới có thể nhận thấy. Đó chính là một bộ phim có tiết tấu ổn định, nhanh gọn và nhiều kịch tính; hình ảnh đẹp mắt (tất nhiên bao gồm cả dàn diễn viên trẻ trung xinh đẹp) với một mê cung đầy sức thuyết phục được xây dựng công phu, đa dạng trong hình thức và cách thức vận động. Âm thanh cũng là một lợi thế của bộ phim, khi nó cộng hưởng hoàn hảo với hình ảnh. Đó là tiếng rít ghê rợn của bọn Nhím Sầu khi chúng lao về phía nạn nhân, hay âm thanh vang vọng đầy đe doạ của mê cung khi chúng bắt đầu xê dịch…

Xếp qua một bên những tên tuổi lớn như bộ bốn The Hunger Game, The Maze Runner như một “anh hùng” không ai mong đợi đột nhiên xuất hiện trong thời điểm mà có quá nhiều bộ phim sci-fi chuyển thể dành cho tuổi mới lớn (young-adult) gây thất vọng não nề như hiện nay. Một mở đầu đáng mong đợi cho hai phần sau đầy cảm xúc.

Note: cái tờ rơi của phim quả là quá sức dễ thương. Một mặt là poster, mặt sau là survival tips =))


S.Icarus

Thứ Năm, 18 tháng 9, 2014

THE PAN’S LABYRINTH: Thế giới nào cho em?




Trong “The Pan’s Labyrinth”, Guillermo del Toro đang cố gắng kể lại một câu chuyện thần tiên mà phần hư thì ít, phần thực thì nhiều, đủ sức khiến cho trái tim người xem thắt lại khi cảnh cuối phim khép lại trên nền bài hát ru u buồn.

Vào năm 2011, tôi được xem “Wizard of the Oz” tại thư viện TPD (hồi ấy còn ở 22 Hai Bà Trưng). Tôi gần như ngay lập tức và tin rằng đó là bộ phim tuyệt nhất mình từng xem. Dù được làm từ trước chiến tranh thế giới thứ hai, được tô màu lại từ phim đen trắng, rồi bối cảnh toàn hoa nhựa… thì xứ Oz trong bộ phim ấy vẫn là một chốn thiên đường khiến tôi mê mẩn. Tôi yêu xứ Oz, yêu Dorothy, yêu cuộc phiêu lưu của cô, vì với tôi, những điều ấy giống như một lời tuyên bố, rằng thế giới thần tiên là có thật, những sinh vật kì bí, phù thủy và pháp sư, những phép màu… là có thật. Tôi tin vào “Wizard of the Oz”, như tin vào thế giới kì diệu của riêng mình.
Nhưng vào những ngày cuối mùa hạ của tuổi 22, giấc mơ về xứ Oz của tôi tan thành mây khói. Tôi mua được một DVD của “Phù thuỷ xứ Oz”, tất nhiên là đồ Tàu thôi, từ hàng đĩa Tràng Tiền (giờ đã không còn nữa). Đĩa phim phần mở đầu dài hơn (không xuất hiện trong bản phim tôi được xem lúc trước), xuất hiện thêm cả những người giúp việc trong nông trại như một tấm gương phản chiếu lại những người bạn của Dorothy ở xứ Oz. Vài phút phim ngắn ngủi, nhưng lái câu chuyện theo một hướng khác đầy nghiệt ngã. Hóa ra cô bé Dorothy ấy, cũng giống như tôi, mãi mãi sống trong cái thế giới hoang tưởng của mình.
Theo một cách nào đấy, “The Pan’s Labyrinth” khiến tôi nhớ đến “Wizard of the Oz”. Cả Ofelia và Dorothy đều tin vào một xứ sở thần tiên diệu kì mà các cô mắt thấy tai nghe, nhưng cuối cùng, nơi chốn tưởng tượng ấy vẫn không thể tách khỏi hình ảnh chính thế giới nơi các em đang sống.
Trong số rất nhiều những bảng xếp hạng của mình, kênh WatchMojo đã hết lần này đến lần khác liệt kê “The Pan’s Labyrinth” vào danh sách Phim thiếu nhi nhưng không dành cho thiếu nhi, Những bộ phim thiếu nhi kinh dị nhất, Phim thiếu nhi nghiệt ngã nhất… Nhưng tôi thì lại nghĩ, đây chưa bao giờ là một bộ phim dành cho thiếu nhi. Tương tự như việc đây cũng chưa bao giờ là một bộ phim về những xứ sở diệu kì.
“The Pan’s Labyrinth” diễn ra tại Tây Ban Nha những năm 1944, khi cuộc chiến tranh dường như đã kết thúc, và quân đội tiếp tục những chiến dịch truy đuổi phiến quân đang trốn sâu trong rừng. Cô bé Ofelia chuyển đến sống trong một doanh trại quân đội nơi người chồng mới của mẹ Ofelia, cũng là cha đứa bé bà đang mang trong mình, là thủ lĩnh. Ngày đầu tiên đến với khu doanh trại, Ofelia đã tìm thấy một mê cung bỏ hoang sát bìa rừng. Mê cung đó là cánh cửa dẫn đến một thế giới diệu kì mà trong đó Ofelia là nàng công chúa vì trốn lên mặt đất mà phải chịu cảnh lưu đày trong kiếp người. Một vị thần đầu dê cho cô bé ba cơ hội thực hiện ba thử thách. Hoàn thành ba thử thách ấy, cô bé có thể quay về với phụ vương và mẫu hậu đang ngày đêm mong chờ.
Không phải một bộ phim dành cho thiếu nhi, cũng không phải một bộ phim làm về các xứ sở diệu kì, “The Pan’s Labyrinth” là câu chuyện về sự bất hạnh và nỗi đau bắt nguồn từ những điều đẹp đẽ. Lí tưởng là một điều đẹp đẽ, nhưng để đạt được nó, người ta buộc phải đấu tranh, hoà bình là một điều đẹp đẽ, nhưng cái giá phải trả cho nó là những cuộc chiến tranh – xâm lược và chống trả, thế giới kì diệu ngập tràn niềm vui và hạnh phúc là một điều đẹp đẽ, nhưng cô bé Ofelia phải đánh đổi nó bằng mọi thứ cô bé có được trong đôi bàn tay bé nhỏ của mình.
Đó là nhiều cuộc chiến, trên nhiều mặt trận, nhưng tựu chung lại đều bắt nguồn từ cuộc đối đầu lớn nhất giữa hai phe: quân chính phủ và phiến quân nổi loạn. Kẹt giữa hai phe xung đột ấy là vị bác sĩ, cô hầu gái Mercedes, Ofelia và người mẹ luôn đau yếu.
Người bác sĩ có lẽ là nhân vật tôi thích nhất bộ phim, bởi giữa những người đang cố tìm cách giết nhau, giữa hận thù và xung đột về tư tưởng, thì ông là người duy nhất liên kết họ bằng mối dây của sự sống. Sự chữa trị của ông là công bằng. Ông chữa trị nỗi đau về thể xác cho mọi người, không quan trọng phe phái. Ông lắng nghe nỗi đau của họ, chứ không lắng nghe những mệnh lệnh hay hăm dọa. Cũng chính người bác sĩ ấy đã nói: “Tuân lệnh là thứ dành cho những người nghe lời mà không cần thắc mắc. Thứ đó chỉ có ông mới làm được thôi, Đại úy”.
Vị bác sĩ làm tôi nhớ đến một nhân vật trong cuốn sách tên “Thảo nguyên đại bàng”. Trong cuốn sách, một ông lão đã cưỡng lại mệnh lệnh của quân xâm lược. Cụ bị phát xít bắn chết. Giây phút cuối cuộc đời cụ chỉ đơn giản là nằm co người lại trong tư thế yêu thích của mình như thể đang chìm vào giấc ngủ. Còn vị bác sĩ của tôi, ông chậm rãi tháo kính, đưa tay lên day quầng mắt mệt mỏi – như một phút ngơi nghỉ hiếm hoi giữa cuộc đời bận rộn. Cái chết không khiến ông sợ hãi, trái lại, nó reo rắc nỗi sợ hãi vào trái tim những kẻ đã nhẫn tâm giết hại ông.
Cha dượng của Ofelia Vidal, kẻ đã xuống tay giết chết bác sĩ vì bất lực trước tinh thần không chịu khuất phục của ông, là một gã chỉ huy hung bạo và mù quáng. Ông ta bị ám ảnh về đứa con trai sinh ra chính ở nơi cha nó chiến đấu, đứa trẻ (dường như) sẽ làm rạng danh cha mình. Ông ta luôn giữ bên mình một chiếc đồng hồ bỏ túi với mặt đồng hồ bị đập vỡ. Chiếc đồng hồ sau là kỉ vật của người cha đã chết trong chiến trận. Người cha đập vỡ chiếc đồng hồ để con trai mình luôn nhớ đến thời khắc cha nó hi sinh, nhưng Vidal lại giữ cho chiếc đồng hồ ấy tiếp tục chạy, và một mực phủ nhận câu chuyện về người cha quá cố. Ông ta cố lờ đi thông điệp xuyên thời gian ấy, coi là vô nghĩa. Vidal vẫn cố giữ lại chiếc đồng hồ như một sự nhắc nhớ - có lẽ giống nhiều hơn với một lời cười nhạo chính cha của mình: “Tôi không cần phải nhớ đến cái chết của ông, nhưng tôi không bao giờ tha thứ cho ”. Nhưng thời gian là một chuỗi lặp các sự kiện, đôi phần trong chuỗi lặp ấy là một trò đùa ác của định mệnh. Và Vidal chính là kẻ phải trả giá cho sự nhạo báng bằng việc một lần nữa lặp lại cái chết của chính cha mình.
Giữa cái khung cảnh điên khùng hỗn loạn ấy, thế giới của Ofelia dường như là một nơi chốn bình yên bé nhỏ. Cô bé chìm sâu trong một thế giới diệu kì mà chỉ riêng cô nhìn thấy, chạm vào. Trong thế giới ấy, cô là một nàng công chúa thất lạc tìm về với gia đình. Cô bé mất đi người cha là thợ may trong thực tại, thì ở Vương quốc dưới lòng đất, cô có một người cha khác đang mong chờ. Người dẫn đường cho cô là một sinh vật gớm ghiếc nửa người nửa dê. Hắn trao cho cô một cuốn sách với những lời chỉ dẫn sẽ xuất hiện khi cần, và cô buộc phải làm theo để có cơ hội được trở về.
hãy tin khi tôi nói rằng, nếu nhìn thấy những “thử thách” ấy, bạn không bao giờ còn suy nghĩ “The Pan’s Labyrinth” là một bộ phim mang sắc màu cổ tích diệu kì.
Ba thử thách, ba tấm gương phản chiếu lại những sự kiện thực xảy ra tại trại lính: con cóc sống trong thân cây mục là hình ảnh phản chiếu của những phiến quân sống đời kham khổ thiếu thốn trên núi cao, chiến đấu cho lí tưởng; con quỷ ăn thịt trẻ con với đôi mắt nằm trong lòng bàn tay quờ quạngbữa ăn tối với những quân nhân, mục sư, thị trưởng – những kẻ đứng đầu bộ máy chiến tranh. Và cuối cùng, thử thách hi sinh gắn với việc Ofelia sẽ chấp nhận hay từ bỏ người em trai của mình. Có quá nhiều những trùng hợp, quá nhiều những gợi ý mà cho đến phút cuối cùng, nó giết chết niềm tin của người xem vào một thế giới thần tiên mà Ofelia đang tìm đường đi đến. Chắc chắn sẽ có những lời van xin em dừng lại, nhưng rồi cũng sẽ có những lời xót xa thương một cô con bị loạn trí, mãi lang thang trong thế giới tưởng tượng của mình.
Những kẻ mang một niềm tin mù quáng thì rốt cuộc sẽ chết chìm trong niềm tin ấy. Chỉ tiếc rằng trong tấn bi kịch này, Ofelia và người cha dượng độc tài lại cùng là những kẻ mù quáng kia. Với Vidal, đó là cái giá phải trả, nhưng với Ofelia, đó lại là một cái giá quá đắt. Ofelia cuối cùng cũng quay trở về với Vương quốc dưới lòng đất, được Hoàng hậu với dung mạo giống hệt người mẹ quá cố dang tay đón chào… Nhưng tôi thì không giàu niềm tin vào thế giới huy hoàng tồn tại trong khoảnh khắc ấy. Tôi đứng về phía những người ở lại, phía cô hầu gái Mercedes khóc nấc lên bên cơ thể nhỏ bé đã giá lạnh.
Ofelia xứng đáng một cuộc sống khác, một cuộc đời hạnh phúc bên cha mẹ mình, trong một thời đại yên bình không tiếng súng. Cô bé đã chiến đấu hết mình vì cuộc đời hạnh phúc ấy, một cuộc chiến mà chỉ mình cô tận hưởng được vinh quang chiến thắng. Bên ngoài chiến thắng ấy, Ofelia chỉ là một bé gái, đã chết, ngay trong khoảnh khắc trước khi cuộc chiến tranh kết thúc. Ranh giới vĩnh cửu giữa hai thế giới ấy buộc người ta phải ghi sâu sự tàn khốc mà chiến tranh giáng xuống số phận mỗi con người, đặc biệt là sức huỷ diệt của nó lên số phận những đứa trẻ sinh ra và lớn lên trong lòng nó. Để rồi người ta buộc phải nuốt nước mắt mà thốt lên rằng: Giá như…

Anh Phan.