Thứ Ba, 27 tháng 1, 2015

KHÔNG BIẾT ĐÂU MÀ LẦN: Cuốn sách về những hoang mang của tuổi trẻ



Nằm trong số các tác phẩm dự thi Văn học tuổi 20 của NXB Trẻ, Không biết đâu mà lần là góc nhìn vừa hài hước vừa nghiêm túc, vừa tâm huyết vừa uể oải của tác giả (chắc sắp không còn) trẻ Văn Thành Lê về những mặt tối, không chỉ trong ngành Giáo dục, mà còn trong cả cách mà xã hội vận hành.

Truyện xuất xứ từ Baria, ảnh chụp tại Hồ Tây =))


Nhân vật chính trong truyện là “Anh”. Chẳng biết Anh là Anh hay là anh, chỉ biết Anh còn trẻ, Anh mới ra trường, Anh hoang mang trước cái thực tế cử nhân đại học sau bốn năm dùi cái này, mài cái kia, thì chỉ biết ở nhà, đuổi gà, oánh chó, và… dỗi mèo. Thế là Anh đi, Anh đi vì tuổi trẻ thôi thúc, Anh đi vì đó là nơi có công việc đang đợi chờ Anh, Anh còn đi vì lí do gì nữa, thì chắc chỉ có mình Anh biết. Chuyến đi dài đưa Anh đến một vùng ngoại thành, giữa những cánh đồng rau xanh mơn mởn không biết vì rau xanh hay vì thuốc kích thích làm rau xanh có một ngôi trường, và anh sẽ là thầy giáo trong ngôi trường ấy. Chẳng biết Anh có yêu cái công việc anh đang làm hay không, chẳng biết Anh có thấy sướng không, cũng chẳng biết đấy có phải là cuộc đời mà Anh mơ ước hay không, chỉ biết lúc nào anh cũng giơ hai tay lên trời mà thốt lên: “Không biết đâu mà lần!”

“Không biết đâu mà lần” không đơn thuần chỉ là tên sách, càng không đơn giản chỉ là cái câu cửa miệng của nhân vật, mà nó là âm hưởng chung của cả một thế hệ những người trẻ như anh, không, đó là âm hưởng của mọi thế hệ bất kể lão ấu khi đi qua tuổi trẻ. 

Tuổi trẻ ấy là những tháng ngày hừng hực khí thế và háo hức với cuộc đời, khi ta nghĩ trong tay mình là sức mạnh đủ để xoay chuyển cả thế giới. Ta hùng dũng bước đi, và rồi vấp phải cục đá trên đường, ngã vập mặt, vêu mồm. Thế là hết cả sức mạnh tuổi trẻ. Lồm cồm bò dậy, xoa xoa cái cằm tím, cái đầu gối đau, ta quay lưng lại tìm cục đá chết tiệt đã làm mình ngã, và thấy may mắn vì mình mới chỉ vấp phải nó, chứ chưa bị nó đè bẹp. Hòn đá hoá ra là cả một tảng đá, một ngọn núi sừng sững cao vòi vọi... 

Câu chuyện của “Không biết đâu mà lần” cũng na ná như thế, cũng bẽ bàng và nhiều tổn thương như thế. Nó là câu chuyện thường thấy, thậm chí nhan nhản, nhiều như rau dưa cá thịt bày bán ngoài chợ, của những cô cậu cử nhân ra trường và ngơ ngác đặt câu hỏi: “Đời rồi sẽ đi về đâu?”. Đi về đâu không biết là bởi ngay từ đầu đã chọn sai đường đi, hay bởi gặp cảnh ngăn sông cấm chợ? Thôi đúng thật, không biết đâu mà lần!

Không biết đâu mà lần là một câu chuyện đả kích ngành giáo dục. Cũng đúng. Nói nó là một câu chuyện về thứ tuổi trẻ bị “ngược đãi”, chuyện về những nam thanh nữ tú quờ quạng mò mẫm tìm lối đi cho cuộc đời cũng không vừa. Cuốn sách là tất cả của nững thứ ấy, lồng ghép vào nhau, tự làm khổ nhau. Khổ mà không khóc được, chỉ thấy buồn cười. Thật, chẳng biết đâu mà lần.

Ở một cái trường cấp 3 nọ nơi Anh dạy học, có một đàn học sinh ngơ ngác như bò, mà có lẽ là hơn bò, quay cuồng khổ sở trong vòng vây của các thầy cô, còn các thầy cô thì quay cuồng vật vã trong cái vòng vây hãm của chỉ tiêu và thành tích. Cô trò giống như khoai tây cà rốt trong cái nồi nước dùng, còn anh đầu bếp đang cầm thìa ngoáy cật lực cái nồi ấy là ông thầy hiệu trưởng (hình như trong Không biết đâu mà lần, ông thầy hiệu trưởng nào cũng như nhau, cái gì cũng có thừa trừ chuyên môn và tâm huyết), trên ông thầy hiệu trưởng là Phòng, là Sở, là Cục (nghe như thể “cục xà phòng”)… Mọi sự quay cuồng, trắng đen lẫn lộn, nát nhừ… Thật chẳng biết đâu mà lần.

Này thì những cọng hoa xanh mơn mởn xD


Xét về mặt cấu tạo, thì cuốn sách này tiếp tục là một trò chơi chữ nghĩa của Văn Thành Lê, khi anh cố gắng viết ra những câu, tạo ra những ý tứ dài ngoằn ngoèo tựa trò rắn săn mồi vốn một thuở làm mưa gió trên những chiếc điện thoại màn hình đen trắng của thập kỉ xưa xưa. Một câu văn có thể diễn đạt trong mười từ, nhưng đó không phải kiểu viết của Văn Thành Lê. Anh sẽ thêm thắt, nêm nếm, thậm chí là nhồi nhét từ ngữ, ý tứ vào câu văn ấy sao cho nó phải dài gấp đôi, gấp ba… mới đã. Ấy thế mà cái sự dài dòng cố ý đấy lại trở thành nét duyên dáng, thành một dạng “dấu hiệu nhận biết” của Văn Thành Lê. Đọc thì thấy vui vui, đọc xong thì lại thấy… nhơ nhớ. Nhơ nhớ rồi thì phì cười vì không hiểu sao một câu văn lại có thể có nhiều thứ trong đó như vậy, y chang một cái bánh mỳ pate trứng chả ruốc =)). Đọc văn mà tưởng như đang ăn bánh mỳ, cắn ngập răng, vừa no cái bụng vừa sướng cái mồm.

Nhưng trong lòng thì có tí gì buồn man mác.

Chẳng hiểu từ bao giờ những người già, những người đã trải qua cả nửa cuộc đời với vô vàn kinh nghiệm đúc rút được lại không phải nơi để những người đi sau đặt niềm tin hay kính trọng. Họ trở thành đối tượng để chê bai, để đả kích, để nghi ngờ và thậm chí là ghét bỏ. Nên trách ai? Trách những người trẻ non nớt kinh nghiệm là thiếu hụt niềm tin, hay trách những vị lão làng kia, thay vì giúp đỡ những người đã từng một thời hoang mang giống mình thì lại coi chúng như đàn cừu béo để một tay mình thao túng. Kinh nghiệm sống giờ không phải là tri thức, nó đã trở thành một thứ vũ khí để đàn áp những kẻ vẫn còn vô vàn ngơ ngác với cuộc đời.

Thật, chẳng biết đâu mà lần.

Hết.
___________________

Những lời cuối cùng của bài bình luận tả phí lù này, mình viết dành riêng cho mình – cái người vừa trải qua y chang những cung bậc cảm xúc của Anh (một cách tích cực, thì mình cũng là Anh). Mình đọc cuốn sách này như một lần trải nghiệm câu chuyện cuộc đời, không phải của mình, mà là của hơn 2/3 số bạn học cùng mình hồi Đại học. Những khó khăn, những nỗ lực vượt khó của các bạn, mình may mắn không phải trải qua, vì thế nên đã có những lúc mình nhìn nhận họ như những kẻ ù lì chậm tiến, cái gì cũng sợ, cái gì cũng lo, cái gì cũng muốn – dù rằng đôi lúc có được cũng chẳng để làm gì. Mình không thích đánh bạn với họ, mà có lẽ họ cũng chẳng khoái gì một cái đứa vô tổ chức thích gì làm nấy, lại luôn nảy nòi những ý tưởng quái dị giống mình. Mình cũng nghe đôi lời đồn đãi rằng, hình như trong cái lớp đại học năm ấy (vừa tốt nghiệp được 6 tháng) thì có mỗi mình mình là đang đâm đầu vào cái công việc đúng theo ngành học – cũng là cái công việc mình yêu thích nhất.

Thôi thì thông qua cuốn sách này, mình vừa thấy mình, vừa thấy các bạn mình trong đó. Coi như là một cơ hội để hiểu nhau hơn, để nửa này không thấy nửa kia nhạt nhoà, và nửa kia không thấy nửa này chỉ là một con thành phố đành hanh khó chịu. Dù rằng chắc cái nửa kia chả đứa nào điên mà đi bỏ thời gian đọc mấy dòng này, và mình thì chủ trương “Chỉ những ai ăn được sầu riêng mới thấy nó thơm” trong khi mình thuộc số còn lại =)).


Thứ Bảy, 3 tháng 1, 2015

CHÂU LỤC THỨ 7 – Cái ôm tưởng tượng dưới tán cây anh đào




Nhà thơ của một “Chân trời cũ” – Hồ Dzếnh trong bài thơ “Ngập ngừng”, đã viết những dòng thơ đầy lãng mạn: “Em tôi ơi! Tình có nghĩa gì đâu? /Nếu là không lưu luyến buổi sơ đầu.” Sẽ chẳng có tình yêu nếu như không có những luyến lưu trong lần đầu gặp mặt. Đó cũng chính là khoảnh khắc đẹp nhất mà Văn Thành Lê đã nắm bắt lại trong những trang sách của mình.

Cuốn sách của Văn Thành Lê có một cấu trúc lạ. “Châu lục thứ 7” là tập truyện ngắn, nhưng lại cũng giống như những chương đặt cạnh nhau của một truyện dài. Cuốn sách được tạo thành từ nhiều truyện ngắn nối tiếp nhau, mỗi câu chuyện chỉ nằm vừa vặn trong vài trang sách, cũng có thể nói là đủ đầy, mà cũng không sai khi cho rằng chúng hẵng còn dang dở - giống như khi bạn đọc rất nhiều cuốn sách, nhưng mỗi cuốn sách chỉ đọc duy nhất chương bắt đầu; mang đến cho tôi chút hoài cổ thật nhẹ nhàng. Một thứ cảm xúc văn chương mà dường như rất lâu rồi tôi không trải qua, ngòn ngọt, mơ hồ, ám chút màu hổ phách của thời gian, gợi nhớ đến những thập niên đã cũ.

Một cuộc gặp gỡ tình cờ dưới cơn mưa trong nhà chờ xe buýt, cú ngã giữa chợ rau lúc quá khuya về sáng, bài phóng sự tại trại hoa một ngày đầu xuân, hoặc chỉ đơn thuần là một cái chớp mắt của thời gian, khi chàng trai bỏ quên buổi chiều của mình trong bóng hình một cô gái… Những lát cắt nếu xét về mặt thời gian vật lý, thì sẽ chẳng là gì với cả đời người dài rộng, nhưng về mặt tình cảm lại có thể là bắt đầu của một hành trình hạnh phúc, hoặc điểm kết thúc của một cảm xúc họ mà nhân vật chính trong khung cảnh ấy sẽ lựa chọn mang theo suốt cả cuộc đời. Văn Thành Lê viết một cuốn sách về tình yêu, nhưng anh không nói về con đường, anh nói về bước khởi đầu của những tình yêu ấy. Một cú hích nhẹ nhàng, như tia nắng đầu ngày nhuộm ửng làn mây mù trên mặt hồ mùa thu. Không thể nắm bắt, nhưng đủ khiến lòng người xuyến xao.

Đôi lúc, trong cuốn sách viết về những sự khởi đầu, Văn Thành Lê còn viết về cả những kết thúc, những dở dang của một mối tình thầm lặng. Tuy nhiên không phải vì dang dở mà những tình cảm ấy dễ dàng bị lãng quên. Sự dang dở mang lại cho tình yêu ấy những day dứt khôn nguôi, và vì day dứt, nên có lẽ nó sẽ có một vẻ đẹp bất hoại, giống như những tứ thơ đã trở thành tuyên ngôn của một lớp người: “Tình mất vui lúc đã vẹn câu thề/ Đời chỉ đẹp những khi còn dang dở” (Ngập ngừng – Hồ Dzếnh). Con người có lẽ dễ dàng chấp nhận sự nuối tiếc mãi không vẹn toàn hơn đối mặt với nỗi ê chề thất vọng vào phút sau cùng.

Nếu nói tập sách “Châu lục thứ 7” là một tập truyện ngắn, thì đó sẽ là tập truyện viết về những khoảnh khắc của tình yêu. Còn nếu ví nó như một truyện dài, thì đây là cuộc chạy bền của một người nghệ sĩ trong nỗ lực hoạ lại bức chân dung những người trẻ đang yêu. Điều này dễ dàng nhận ra khi đặt những mẩu truyện ngắn trong cuốn sách chồng lên nhau, và tô đậm những điểm trùng lặp. Trong mỗi câu chuyện của Văn Thành Lê, nhân vật chính đều là những người mới ngoài đôi mươi, hoặc vừa đặt chân đến một miền đất hoàn toàn mới lạ (mà trong sách thì là bùng “Baria” – Vũng Tàu) hoặc chính bản thân họ đang trở nên lạ lẫm với những đổi thay đang diễn ra xung quanh mình. Họ trẻ, họ có nhiều hoài bão, họ có những thở than và trăn trở về cuộc đời, nhưng không phải vì thế mà họ mất đi sự lạc quan, và trái tim hai mươi tràn nhựa sống. Những nhân vật ấy mang trong mình hai con người: một người trưởng thành đầy thực tế, và cả một gã mơ mộng si tình.

Giữa cuộc đời bộn bề lo toan, vẫn có một chàng trai trốn dưới tán cây giá tỵ ngắm nhìn một cô gái, vẫn có một chàng trai khác đi dưới hàng cây anh đào mà tưởng tượng được ra cả một câu chuyện tình… Bằng cái giọng kể bình thản, dịu dàng, Văn Thành Lê đã đưa người đọc đến một khung cảnh rất khác, nằm giấu mình đâu đó giữa hiện tại, nơi những người trẻ tuổi sống thật chậm, nghĩ thật sâu, và trao đi yêu thương không cần điều kiện. Giống như ý văn tôi đã đọc được trong một cuốn tiểu thuyết tình yêu, đại ý nếu ví tình yêu giống như một bông hoa, thì chỉ cần bông hoa ấy nở, là tuổi thanh xuân đã vô cùng mãn nguyện. “Chẳng nhẽ đã đơm hoa là cứ phải kết trái, chẳng lẽ cứ làm cá là phải biết bơi?”. Tuổi trẻ có những cách, đôi lúc thật cực đoan để yêu thương một ai đó ngoài bản thân mình.

Đôi lúc, giữa những trang sách của Văn Thành Lê, tôi có một ý tưởng, là chuyện gì sẽ xảy ra, nếu anh là một hoạ sĩ thay vì một nhà văn viết sách. Nếu xâu chuỗi tất cả những bối cảnh đã từng được anh miêu tả trong “Châu lục thứ 7”, ta sẽ thấy mình như đang được xem một bộ phim tài liệu – tình cảm (nếu thực sự thể loại này có tồn tại) tuyệt đẹp của thiên nhiên đất nước và con người. Từ một nhà chờ xe bus giữa cơn mưa bóng mây xối xả, mặt biển Baria lấp lánh trong ánh nắng tới một xứ Đạo vừa hư vừa thực, nơi mà ranh giới giữa sự sống và cái chết được ngăn cách bởi 15 phút đồng hồ, từ một khu chợ đầu mối ban đêm lấp loá ánh đèn cho tới một hòn đảo nổi ngoài biển xa, từ một buổi chiều dưới vòm hoa giá tỵ xanh biếc cho tới trại hoa rực rỡ của một ngày cuối đông... Mỗi khung cảnh là một bức tranh sinh động được xây dựng nên bằng những từ ngữ, tưởng như nằm yên trên trang giấy mà lại hoá rực rỡ âm thanh sắc màu. Và tan hoà vào khung cảnh ấy, là những câu chuyện tình chớm nở xanh xanh màu hi vọng, cũng đẹp tuyệt vời như chính phông nền phía sau.

Khiếu hài hước cũng là một nét duyên dáng không chỉ trong “Châu lục thứ 7” mà còn trong nhiều tác phẩm khác của Văn Thành Lê. Cái hài hước ấy không đến từ tình huống, nó đến một cách rất tự nhiên từ góc nhìn của các nhân vật. Mỗi góc nhìn khác nhau sẽ mang đến một “hiện thực chủ quan” khác nhau. Chính vì vậy mà một điều “kinh thiên vĩ địa” với kẻ này lại chỉ là cơn gió thoảng qua với kẻ khác, cuộc gặp gỡ khiến lòng người này bâng khuâng xao xuyến có lẽ lại chẳng là gì trong ánh mắt của kẻ kia. Có lẽ để tránh cho nhân vậy những sự bẽ bàng không đáng có ấy, Văn Thành Lê đã kết thúc câu chuyện ngay trước khi nó thực sự kịp bắt đầu. Quay trở lại vấn đề tôi đang nhắc tới, góc nhìn hài hước về những tình huống trong đời sống hàng ngày được mô tả trong cuốn sách càng tô đậm hình ảnh một người trẻ lạc quan, yêu đời và giàu lòng nhân ái. Tất nhiên, vẫn có những chỗ đây đó, sự hài hước của Văn Thành Lê đi quá giới hạn của sự duyên dáng, nhưng tựu chung lại, nó vẫn là một nét đặc sắc đáng yêu.

Tôi xin khép lại bài viết này bằng hình ảnh con đường hoa anh đào được nhắc đến trong truyện ngắn “Chuyện tình trong trí tưởng” – mẩu truyện “áp chót” trong “Châu lục thứ 7”. Chàng trai trong câu chuyện nhìn thấy một cặp trai gái đi dưới tán cây anh đào (tất nhiên là khác với loại hoa anh đào “xịn” trồng ở xứ Phù Tang) và đã tưởng tượng ra cả một câu chuyện tình yêu dành cho họ. Nhân vật chàng trai trong câu chuyện ấy dường như là đại diện cho tất cả các nhân vật đã từng xuất hiện trong cuốn sách này. Anh ta vừa đủ tò mò để chú ý tới một cặp đôi lướt qua, vừa đủ kiên nhẫn để theo dấu họ suốt cả chặng đường, vừa đủ niềm tin và lãng mạn để tưởng tượng ra một câu chuyện tình yêu mà hai người họ là nhân vật chính, và anh ta cũng đủ nhân hậu để không nghi ngờ họ dù chỉ trong một phút giây. Và câu chuyện tình mà anh ta nghĩ ra, chắc chắn ít nhiều cũng ẩn chứa trong đó ước mơ của anh ta về một tình yêu chân thật. Tình yêu ấy vừa chân thực hiện hữu, vừa mơ hồ kì ảo, lãng mạn và diệu kì như một cái ôm tưởng tượng dưới tán cây anh đào.


Phan Hải Anh.

172 GIỜ TRÊN MẶT TRĂNG: PHÍA TỐI KINH HOÀNG



Từ bộ tiểu thuyết giả tưởng đầu tiên về đề tài du hành vũ trụ của Jules Verne năm 1865 (tựa đề De la terre à la lune – tạm dịch: Từ Trái Đất lên Mặt Trăng) cho tới bộ phim câm năm 1902 của đạo diễn Georges Méliès có tên Le Voyage dans la Lune (tạm dịch: Hành trình đến Mặt Trăng), và rất nhiều những tác phẩm văn học hay điện ảnh sau này, loài người dường như có một khát khao không bao giờ vơi cạn được khám phá và am hiểu tường tận Mặt Trăng - tinh cầu bí ẩn nhưng cũng quá đỗi thân quen. Và cuốn 172 giờ trên Mặt Trăng của nhà văn người Áo – Johan Harstad có thể coi như một tiếp nối đầy ấn tượng.

172 giờ trên Mặt Trăng diễn ra trong bối cảnh NASA khởi động lại chiến dịch đưa con người quay trở lại khám phá Mặt Trăng, tiếp tục sứ mệnh bị bỏ dở từ thập niên 70. Trong lần quay trở lại này, phi hành đoàn không chỉ bao gồm các phi hành gia được đào tạo bài bản mà còn có ba thiếu niên được lựa chọn ngẫu nhiên trong số hàng triệu thiếu niên đáp ứng đủ các yêu cầu. Nhóm thiếu niên được đưa vào chương trình một mặt nhằm lôi kéo sự chú ý của giới trẻ và truyền thông, trong nỗ lực phục hưng lại ngành nghiên cứu tưởng như đã trôi vào dĩ vãng này. Một kế hoạch được tính toán vô cùng tinh vi, tưởng chừng như không có bất kì một sai sót, tất cả, ngoại trừ việc không một ai biết chính xác điều gì đang chờ đợi họ ở Biển Yên Bình – vùng biển cạn trên bề mặt Mặt Trăng.

Ba thiếu niên gồm Mia (người Na Uy), Midori (người Nhật) và Antoine (người Pháp) là những người giành được tấm vé lên Mặt Trăng đầy mơ ước. Tuy nhiên với mỗi người trong số họ, sứ mệnh này lại có những ý nghĩa rất khác nhau. Với Mia – cô ca sĩ của một nhóm nhạc Rock địa phương, thì đó là một cơ hội để đưa sự nghiệp của mình sang trang mới, trong khi với Midori – cô gái với khát vọng nữ quyền, Mặt Trăng là tấm vé giải thoát khỏi cuộc đời trưởng thành nhàm chán đã bày ra trước mắt; còn với Antoine, sứ mệnh này lại là một cuộc đào thoát khỏi mối tình vô vọng. Mỗi người trong số họ đều sống những cuộc đời khác nhau, lâm vào những bế tắc khác nhau, nhưng tựu trung lại, Mặt Trăng đều xuất hiện như một lối thoát, một con đường mới đầy tươi sáng.




Nhưng như cả ngàn năm nay cuộc đời đã luôn vận hành như thế, những kẻ tiên phong luôn là những kẻ phải trả giá đắt. Mia, Midori và Antoine là những thiếu niên đặc biệt, họ được trao cho cơ hội làm những thiếu niên đầu tiên đặt chân lên Mặt Trăng, được nhìn thấy điều mà hàng tỉ người không có cơ hội được thấy, được sống một cuộc đời mà chưa ai từng được sống… và cả những hiểm nguy chưa ai tùng đối mặt. Chuyến đi lên Mặt Trăng sẽ là một trải nghiệm để đời với từng người trong số họ, nhưng với điều kiện, họ có thể tìm được đường về, như kẻ tiên phong kia cuối cùng cũng đến được với chân lý.

Đứng trên một Mặt Trăng hoang vu, bị đe doạ tính mạng bởi những kẻ lạ mặt với sức mạnh siêu nhiên, những thiếu niên cam đảm ấy sợ hãi nhất điều gì? Sợ hãi những kẻ ngoài kia, sợ hãi cái chết bất ngờ, hay sợ hãi chính những con người trên Trái Đất, những kẻ đã biết trước mọi nguy hiểm nhưng vẫn đẩy người ta vào chỗ chết, chỉ để kiểm chứng lại những học thuyết và tham vọng điên rồ của mình? Đến phút cuối cùng, trước lằn ranh sinh tử, bị phản bội, bị nuốt chửng bởi nỗi sợ hãi, thì thứ đáng sợ nhất có lẽ là hi vọng. Hi vọng cho người ta động lực, nhưng hi vọng lại là thứ huỷ hoại người ta nhanh nhất vì nó rất dễ sụp đổ, như cách Mia đã nghĩ. Cô không tin vào hi vọng, cô tin vào bản thân mình, tin vào cuộc đấu tranh sinh tồn trong khu căn cứ hoang tàn tĩnh lặng. Và niềm tin ấy đã giúp cô “gần như” chiến thắng. Có  quan điểm xã hội học cho rằng, tin vào bản thân mình cũng là một hình thức của sự sợ hãi và mất niềm tin, khi con người ta không biết đặt niềm tin vào ai khác ngoài chính mình. Nhưng trong đa số các trường hợp, niềm tin vào bản thân chính là cơ sở cho mọi niềm tin khác, và có lẽ là thứ niềm tin còn lại sau cùng khi người ta lâm vào tuyệt vọng.

Có thể coi 172 giờ trên Mặt Trăng vừa giống như cuốn nhật trình ghi lại quãng thời gian phi hành đoàn tàu Ceres thực hiện sứ mệnh trở lại Mặt Trăng, lại vừa giống với một cuốn nhật ký lưu giữ lại từng sự kiện, từng suy nghĩ của mỗi người trước và trong khi tham gia cuộc hành trình ấy. Một cuốn nhật ký dở dang, và một cuốn nhật trình chết chóc.

Như Johan Harstad đã kể lại trong phần Lời tác giả, trong quá trình tìm kiếm một sự sống khác ngoài không gian, một “đồng minh” để thấy giống loài mình không cô độc, con người đã gửi ra ngoài vũ trụ hai cuốn băng ghi lại những thông tin như cấu trúc sinh học, âm nhạc và nghệ thuật, những thứ đủ để hiểu được về loài người và nền văn minh họ đã xây dựng nên. Những cuốn băng ấy giống như một lời chào đón nhiệt thành gửi tới những người bạn phương xa, nhưng đã bao giờ bạn đặt ra giả thuyết rằng, đó chính là lời mời gọi cho một cuộc xâm lăng từ bên ngoài Trái Đất?

Điều không tưởng ấy là một mối đe doạ thực sự. Sau hàng triệu năm tiến hoá, con người có lẽ đã mất đi sự cảnh giác bản năng, trở nên kiêu ngạo, tự phong mình là những kẻ chinh phục. Chúng ta đã đánh mất đi sự khiêm nhường trước những thế lực vượt ngoài tầm hiểu biết. Bi kịch bắt đầu từ khoảnh khắc ấy. Vũ trụ vô cùng bao la, và con người chỉ là một dấu chấm nhỏ nhoi dễ dàng bị xoá bỏ. Chúng ta không biết rõ về khoảng không gian vô tận ngoài kia như chúng ta hằng tưởng, sự kiêu ngạo và vốn hiểu biết hữu hạn ấy, cuối cùng sẽ dẫn dắt loài người đến bờ vực diệt vong, không chỉ trong cuốn tiểu thuyết giả tưởng hơn 300 trang này, mà còn trong cả cuộc đời thực chúng ta đang sống. “Tất cả các ngươi sẽ chết”, và chính con người đã tự đào hố chôn mình.

172 giờ trên Mặt Trăng được ca ngợi bởi sự “hoài cổ” khi xây dựng bối cảnh bằng chất liệu từ những bộ phim du hành vũ trụ những năm 80. Sự hoài cổ ấy không chỉ đơn thuần là phông nền bối cảnh, nó còn là mô hình xây dựng cao trào với mở đầu dài trong bình lặng, kịch tính tăng dần về nửa cuối trước một cú chốt bùng nổ. Phần đầu truyện diễn ra khá chậm, phải mất tới hơn một nửa cuốn sách, bạn đọc mới theo chân nhóm thiếu niên đến được Biển Yên Bình nơi đặt căn cứ DARLAH 2 – một sự chuẩn bị tâm lý vừa đủ để bạn đọc trở nên yêu quý các nhân vật, và sẵn sàng sát cánh bên họ trong cuộc phiêu lưu tưởng tượng. Nhưng từ sau thời điểm ấy, tiết tấu  truyện trở nên dồn dập, nhanh chóng với những cú ngoặt bất ngờ - có thể tưởng tượng giống như tốc độ một quả tên lửa rời bệ phóng khiến người đọc, đôi khi là cả nhân vật, không có đủ thời gian để kinh hoàng.



Bên cạnh một kết cấu truyện được xây dựng công phu, thì sự hoà trộn giữa các thể loại cũng là một nét vô cùng đặc sắc. 172 giờ trên Mặt Trăng được sáng tác trên hai thể loại chính là khoa học viễn tưởng và kinh dị, xen lẫn một chút tâm lý tuổi mới lớn. Trong khi nửa đầu tác phẩm tập trung vào thể loại khoa học viễn tưởng và tâm lý, kinh dị chỉ lướt qua trong một vài chi tiết nhỏ, đủ đề người đọc giật mình thì trong nửa cuối, tác phẩm gần như là sự độc diễn của thể loại kinh dị, mà trong đó, khoa học viễn tưởng chỉ là xúc tác để câu chuyện đạt được sự ghê rợn cần thiết. Tất nhiên, tuy đáng sợ, nhưng cũng nhiều suy tưởng và giàu cảm xúc yêu thương. Johan Harstad đã viết nên một câu chuyện lạ kì, mà trong đó, anh xây dựng nên mỗi nhân vật với những câu chuyện đời khác nhau; những câu chuyện mà khi chúng kết thúc, ta có thể không hiểu đến tận cùng, nhưng đều tin vào tính chân thực của nó cũng như có được cho mình những lí do để tha thứ cho họ dù đã phản bội, hay lừa dối ta.

Nếu như Jules Verne ở thế kỉ thứ 19, thời đại của các mạng khoa học công nghệ, của cơ khí phát triển, của một kỉ nguyên khám phá nhìn Mặt Trăng như một miền đất hứa, một môi trường hoàn toàn mới lạ để chinh phục, thì ở thế kỉ 21 của công nghệ số, nhà văn người Na Uy Johan Harstad, hoà chung vào dòng suy tưởng của những nhà văn đương đại, lại nhìn tinh cầu này bằng một sự hoài nghi xen lẫn nỗi kinh sợ. Đây cũng là xu hướng mới trong sự phát triển của dòng truyện khoa học viễn tưởng, khi mọi thứ đều trở nên cũ mòn, và loài người dường như đang mất đi cái nhìn lạc quan vào cuộc sống quanh mình.


Phan Hải Anh